• HOME
    • Facebook
    • Instagram
    • Youtube
  • CÔNG TRÌNH
  • Leaf ‘stories
  • About us
  • LEAF Furniture Talks !
    • FOR YOU
    • Retail
    0.00 ₫(0 items)
    • HOME
      • Facebook
      • Instagram
      • Youtube
    • CÔNG TRÌNH
    • Leaf ‘stories
    • About us
    • LEAF Furniture Talks !
      • FOR YOU
      • Retail

    Table of Contents

        • Danh sĩ xứ Thanh trên Bia Tiến sỹ Văn Miếu – Quốc Tử Giám
        • lịch mở cửa văn miếu. lịch mở cửa văn miếu quốc tử giám 2019. giá vé vào văn miếu quốc tử giám 2019. giá vé vào văn miếu. địa chỉ văn miếu quốc tử giám. giờ mở cửa văn miếu. giờ mở cửa văn miếu quốc tử giám
        • Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu
        • 7 điều cần biết khi tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám – Biểu tượng của thủ đô Hà Nội
        • Vai trò lịch sử và hệ thống kiến trúc — 1000 Years Thang Long (VietNamPlus)
        • Bạn có biết “Văn Miếu quốc tử giám thờ ai & ý nghĩa?”
    • Văn Miếu Quốc Tử Giám thờ ai?
    • Ngoài Khổng Tử, Văn Miếu Quốc Tử Giám thờ ai?
    • Ý nghĩa của Văn Miếu Quốc Tử Giám
        • Học viên PVF tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám
        • Lễ dâng hương tại Văn Miếu Quốc Tử Giám nhân kỷ niệm 30 năm thành lập

    Danh sĩ xứ Thanh trên Bia Tiến sỹ Văn Miếu – Quốc Tử Giám

     

    Với quan niệm: Hiền tài là nguyên khí Quốc gia! Hoàng đế Lê Thánh Tông đã cho dựng bia đá khắc tên những người thi đỗ, được triều đình ban học vị tiến sỹ – Những tấm bia đá này có tên gọi chung là bia Tiến sỹ dựng tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

     width=

    Du khách trong và ngoài nước đến tham quan Bia Tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Ảnh: tư liệu

    Tham gia biên soạn nội dung văn bia Tiến sỹ là những người học rộng, tài cao được triều đình tín nhiệm. Trong số những người được cử soạn văn bia, xứ Thanh có hai người là Đàm Văn Lễ và Trịnh Cao Đệ.

    Bia Tiến sỹ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám là những tác phẩm văn hóa – nghệ thuật phản ánh nghệ thuật điêu khắc đá. Mỗi tấm bia là một tác phẩm nghệ thuật, 82 tấm bia đã tạo nên một “rừng bia”. Những tấm bia này có niên đại rõ ràng, trải dài trong khoảng hơn 300 năm đã phản ánh diễn biến, bước phát triển của nghệ thuật điêu khắc đá trong hơn 3 thế kỷ của vương triều Hậu Lê, trong đó có sự đóng góp của nghệ thuật chạm khắc đá và đá xứ Thanh. 

    Khảo sát 82 bia Tiến sỹ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trong số các vị Tiến sỹ được ghi danh cùng với quê hương bản quán trên 82 văn bia có 125 người quê Thanh Hóa. Con số 125 vị đỗ tiến sỹ (trong 82 khoa thi) chưa phải là toàn bộ số người đỗ tiến sỹ ở Thanh Hóa thời Hậu Lê nhưng đã khẳng định: Cùng với các tỉnh có truyền thống khoa cử như Nghệ An, Nam Định, Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh… Thanh Hóa được xếp vào số ít các địa phương có nhiều người đỗ Tiến sỹ. Con số này đã làm thay đổi quan niệm cho rằng xứ Thanh là đất của các võ tướng, không phải là đất văn nho.

    Số lượng người xứ Thanh đỗ tiến sĩ trong 82 văn bia được phân bổ ở các  huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Tĩnh Gia, Hà Trung, Đông Sơn, Thiệu Hóa, Triệu Sơn, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc. Trong đó, nổi trội nhất là các huyện Hoằng Hóa (28 người), tiếp đến là Đông Sơn (18 người), Nông Cống (17 người). Trong các huyện này tập trung nhất là các xã Hoằng Lộc (Hoằng Hóa), Đông Thanh (Đông Sơn), Cổ Đôi (Nông Cống). Thực tế đã cho thấy: Hoằng Hóa, Đông Sơn là những huyện có truyền thống khoa cử nhưng đến thời Hậu Lê thì vùng đồng chua, nước trũng (Cổ Đôi – Nông Cống) đã vươn lên thành một vùng có nhiều người đỗ đạt cao. Những luật lệ khuyến học của làng đã đem lại hiệu quả trong học tập, thi cử.

    Theo quy định của vương triều, mỗi khóa thi chỉ dựng một bia ghi tên những người đỗ Tiến sỹ. Số liệu thống kê cho thấy trong 82 khóa thi, phần lớn sỹ tử xứ Thanh đều có mặt và đạt kết quả cao, chỉ có 9 khóa thi sỹ tử xứ Thanh không có người đỗ. Đặc biệt có khóa thi sỹ tử xứ Thanh chiếm số lượng lớn, có khóa gần như “độc chiếm” bảng vàng.

    Trên tấm bia thứ  16, lập  ngày 16-11 năm đầu niên hiệu Thịnh Đức đời vua Lê Anh Tông (1565), trong số 4 người đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa thì 3 người xuất thân từ quê hương Thanh Hóa đó là Lê Khiêm xã Bảo Đà, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân), Bùi Khắc Nhất (xã Bột Thái, huyện Hoằng Hóa), Đỗ Tế Mỹ, xã Cổ Đôi (huyện Nông Cống).

    Cũng khoa thi này, có 6 vị đỗ Đệ nhị giáp Đồng Chế khoa xuất thân thì 2 người là con em Thanh Hóa là Lê Nghĩa Trạch ở Cổ Đôi (Nông Cống) và Hoàng Quốc Thực ở xã Dực Thượng (Quảng Xương).

    Khoa thi niên hiệu Quang Hưng thứ 21 đời Lê Thế Tông, có 3 vị đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân thì 2 người quê Thanh Hóa là Nguyễn Thứ – Hoằng Hóa và Lê Bật Tứ – Nông Cống. Cũng trong khóa này có Nguyễn Giới, người huyện Nga Sơn đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

    Đặc biệt, khoa thi niên hiệu Quang Hưng thứ 12 đời Lê Thế Tông, xứ Thanh độc chiếm bảng vàng, 2 người đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân là Lê Nhữ Bật ở Vĩnh Trị (Hoằng Hóa) và Lê Trí ở Tào Sơn (Tĩnh Gia), 2 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân là Lương Khiêm Hướng ở Hội Trào (Hoằng Hóa) và Lương Định Túc ở Nhân Cương (Nông Cống).

    Trường hợp Trịnh Thiết Trường, vị đại khoa được khắc tên trên 2 tấm bia của 2 khóa thì liền nhau. Ông người An Định, phủ Thiệu Thiên, đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442). Không bằng lòng với kết quả này, ông tiếp tục dự thi khóa sau (năm Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hòa thứ 6) và đã đỗ Đệ Nhất giáp tiến sĩ cập đệ.

    Khảo sát 82 văn bia Tiến sỹ ở Văn  Miếu Quốc Tử Giám cho thấy nhiều vị tiến sỹ người xứ Thanh xứng đáng tô thắm truyền thống hiếu học của quê hương.

    Xã Cổ Đôi là trường hợp nổi trội của huyện Nông Cống. Xã có 9 người đỗ đại khoa, chiếm tới hơn 50% số người đỗ của cả huyện Nông Cống.

    Ở xã Đông Thanh (Đông Sơn) có hai chú cháu Lê Khả Trù và Lê Khả Trinh cùng thi đỗ Tiến sỹ.

    Hai anh em Đỗ Tất Đại và Đỗ Tế Mỹ ở Nông Cống cùng được khắc tên trên bia Tiến sỹ, Đỗ Tất Đại đỗ Đệ nhất giáp chế  khoa xuất thân, khoa thi Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình năm thứ 6. Đỗ Tế Mỹ đỗ Đệ nhất chế khoa xuất thân khoa Ất Sửu, niên hiệu Chính Trị năm thứ 8 cùng với Lê Khiêm người xã Bảo Đà (Thọ Xuân) và Bùi  Khắc Nhất người Bột Thái (Hoằng Hóa).

    Hai cha con Nguyễn Hiệu, Nguyễn Hoãn ở Triệu Sơn cùng thi đỗ Tiến sỹ. Nguyễn Hiệu thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Canh Thìn  niên hiệu Chính Hòa 21 cùng với Đặng Quốc Đỉnh người Cát Xuyên (Hoằng Hóa). Nguyễn Hoãn thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến Sỹ xuất thân  khoa thi Quý Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 4 cùng với  Lê Doãn Giai người Y Bích (Hậu Lộc).

    Trong số 126 vị được vinh danh trên văn bia đá trong 82 khoa thi, xứ Thanh có tới 14 vị đỗ đầu trong các khoa thi trong đó: có 1/18 vị đỗ Trạng Nguyên, 4/21 vị đỗ Bảng Nhãn, 3/33 vị đỗ Thám Hoa. Con số này đã khẳng định tài năng, trí tuệ của  người xứ Thanh trong các cuộc đua tài của nền học vấn đương thời.

    Những Tiến sỹ được vinh danh trên văn bia Tiến sỹ Văn  Miếu – Quốc Tử Giám là những người hiền tài, ở những mức độ khác nhau đã có những đóng góp nhất định cho đất nước, quê hương, được sử sách lưu danh.

    Nguyễn Văn Nghi, người Đông Thanh (Đông Sơn) là người thông minh, học giỏi, đã viết được những câu “thần cú”. Ông đỗ Đệ nhất giáp chế khoa, khoa thi năm Giáp Dần (1554) đời vua Lê Trung Tông, được phong tặng Tuyên lực công thần, đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, chức Lại bộ tả thị lang, kiêm Đông các Đại học sỹ, nhập thị Kính diên, tổng tiến công Bộ Thượng thư, tước Thái Bảo. Ông là thầy học của hai vua: Lê Anh Tông và Lê Thế Tông. Khi mất, Nguyễn Văn Nghi được vua phong là “Phúc Thần”.

    Hai cha con Nguyễn Hiệu và Nguyễn Hoãn người Triệu Sơn thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sỹ xuất thân đều làm tới chức Tể tướng và là thầy học của chúa Trịnh (Nguyễn Hiệu là thầy học của chúa Trịnh Giang, Nguyễn Hoãn là thầy học của chúa Trịnh Sâm).

    Nguyễn Quán Nho người Vãn Hà (Thiệu Hóa) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Đinh Mùi, niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 6. Ông là người nổi tiếng về ý chí, tinh thần vượt khó khăn, nghèo túng để dùi mài kinh sử. Nguyễn Quán Nho được triều đình trọng dụng phong làm Tể tướng Thượng thư 3 bộ: bộ Binh, bộ Lễ, bộ Lại, 3 lần làm Ngự sử đài, 5 lần được cử đi sứ phương Bắc, là trọng thần trải nhiều đời vua (Huyền Tông, Gia Tông, Dụ Tông). Thời gian Nguyễn Quán Nho làm Tể tướng được dân ca ngợi: “Tể tướng Vãn Hà – Thiên hạ âu ca”. Trong chính sử cũng như trong dân gian, nhân dân không chỉ ca ngợi tài năng, đức độ của ông mà còn ca ngợi bà mẹ của ông, người đã vượt lên trên hoàn cảnh nuôi dưỡng, dạy dỗ, rèn luyện nhân cách cho ông từ ấu thơ đến khi làm Tể Tướng. Chuyện kể dân gian về việc hai mẹ con Nguyễn Quán Nho vớt bèo nuôi lợn trong ngày vinh quy bái tổ: “Vinh quy bái tổ sau rổ bèo đầy”, rồi chuyện bà mẹ từ chối tấm áo lụa của quan đại thần Nguyễn Quán Nho để răn dạy con trai không được tham nhũng, bòn rút của dân đến nay vẫn còn mới mẻ.

    Cùng mạch đất với nhà sử học Tiến sỹ Lê Văn Hưu là Tể tướng Lê Hy (người xã Đông Khê, huyện Đông Sơn), người nổi tiếng thông minh, học giỏi. Ông đỗ Tiến sỹ khoa Giáp Thìn (1664), đời vua Lê Huyền Tông. Ông đã kinh qua nhiều chức: Tham tụng (Tể tướng), Binh bộ Thượng thư, Trí trung thư giám.

    Đóng góp lớn nhất của tiến sỹ Lê Hy là lĩnh vực sử học. Ông là người kế tục Hồ Sỹ Dương “trông coi quốc sử” được triều đình giao cho việc biên soạn quốc sử. Lê Hy cùng với  nhóm cộng sự đã biên soạn cuốn Bản kỷ tục biên gồm 19 quyển, biên chép lịch sử từ Huyền Tông Mục Hoàng Đế, niên hiệu Cảnh Trị năm đầu (1663) đến Gia Tông Mỹ Hoàng Đế năm Đức Nguyên thứ 2 (1675). Sau khi công việc hoàn thành, triều đình đã cho khắc in. Đây là phần cuối của bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Nếu Lê Văn Hưu với tập Đại Việt sử ký là người đặt cơ sở đầu tiên thì Lê Hy với Bản kỷ tục biên là người khép lại trang cuối của tập đại thành.

    Bia Tiến sỹ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Thăng Long (Hà Nội) là di sản văn hóa dân tộc. Di sản tư liệu thế giới này đã khẳng định những đóng góp của nhân tài xứ Thanh trong dòng chảy của văn hóa Thăng Long nghìn năm văn hiến.

    lịch mở cửa văn miếu. lịch mở cửa văn miếu quốc tử giám 2019. giá vé vào văn miếu quốc tử giám 2019. giá vé vào văn miếu. địa chỉ văn miếu quốc tử giám. giờ mở cửa văn miếu. giờ mở cửa văn miếu quốc tử giám





    Văn miếu – Quốc Tử Giám. (Ảnh: Hải Yến)

    Văn miếu Quốc Tử Giám nằm ở số 58 Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, Hà Nội.

    Văn miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long.

    Văn miếu – Quốc Tử Giám đã được Thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt.

    Văn miếu – Quốc Tử Giám với các quần thể kiến trúc gồm: hồ Văn, khu Văn miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám và kiến trúc chủ thể là Văn miếu – nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của Việt Nam.

    Văn miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông (Đại Việt sử ký toàn thư. Văn miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường học Hoàng gia. Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam.

    Để giúp người dân cả nước có dịp về Hà Nội, vào tham quan Văn miếu – Quốc Tử Giám, chúng tôi xin thông tin chi tiết về lịch mở cửa, giá vé vào Văn miếu – Quốc Tử Giám 2019 như sau:

    Lịch mở cửa Văn miếu – Quốc Tử Giám 2019:

    Văn miếu – Quốc Tử Giám mở cửa vào tất cả các ngày trong tuần.

    Giờ mở cửa Văn miếu – Quốc Tử Giám cụ thể: 

    – Mùa Hè (từ 15/4 đến 15/10) từ 7h30 đến 18h

    – Mùa Đông (thời gian còn lại): từ 8h00 đến 17h00 

    Giá vé vào Văn miếu – Quốc Tử Giám 2019 như sau:

    Loại vé: 30.000đ/lượt

    Giảm 50% (loại vé: 15.000đ/lượt) cho các đối tượng sau:

          – Người khuyết tật nặng

         – Công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên (xuất trình chứng minh thư).

         – Nhân dân ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (theo quy định trong chương trình 135 của Chính phủ).

         – Người có công với cách mạng.

         – Học sinh, sinh viên từ 15 tuổi trở lên (xuất trình thẻ học sinh, sinh viên)

    Miễn vé tham quan:

          – Người khuyết tật đặc biệt nặng.

          – Trẻ em dưới 15 tuổi

    H.Yến

    Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu


    (Cinet)- 82 bia đá đặt tại khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám vinh danh tên tuổi những người đỗ đạt trong các kỳ thi tuyển tiến sĩ triều Lê và Mạc là những di vật giá trị bậc nhất của Di tích, là biểu tượng và niềm tự hào của sự thành đạt và trí tuệ.

    (Cinet)- 82 bia đá đặt tại khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám vinh danh tên tuổi những người đỗ đạt trong các kỳ thi tuyển tiến sĩ triều Lê và Mạc là những di vật giá trị bậc nhất của Di tích, là biểu tượng và niềm tự hào của sự thành đạt và trí tuệ.

     style=

    Ảnh: bestprice.vn

    Những pho sử đá

    82 bia đá khắc tên 1307 lượt Tiến sĩ thi đỗ qua 82 khoa thi dưới triều Lê và Mạc là những di vật giá trị bậc nhất của khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Đây là những pho sử đá khẳng định niềm tự hào của truyền thống hiếu học của Việt Nam.

    Giá trị đặc biệt của bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám chính là bài văn bia (bài ký) bằng chữ Hán chứa đựng rất nhiều thông tin lịch sử. Một bài văn bia thường gồm: Dòng tiêu đề của khoa thi (phần nối giữa trán bia và bài ký) năm tổ chức khoa thi, ca ngợi triều vua đang trị vì, tên các vị quan tham gia tổ chức khoa thi như Đề điệu, Giám thí, Độc quyển, Đằng lục..; cách thức tổ chức thi; họ tên và quê quán của những người thi đỗ; tên nhóm người tham gia dựng bia (soạn, nhuận sắc và viết triện).

    Phần ký của văn bia cung cấp nhiều thông tin quan trọng về lịch sử của nền giáo dục, thi cử nước nhà và quan điểm của nhà nước về đào tạo và sử dụng nhân tài. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” đã được thể hiện rõ trong nội dung các bài văn bia với ý nghĩa vạch ra đường lối chiến lược cho các nhà cầm quyền (xưa và nay) trong quản lý và xây dựng đất nước là phải coi trọng nhân tài; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các nhà trí thức đối với đất nước, đó là đem tài năng ra phục vụ đất nước, đào tạo đội ngũ nhân tài kế tiếp cho đất nước.

     style=

    Những bài ký trên bia là kết tinh trí tuệ của nhiều thế hệ trí thức, là kinh nghiệm về đạo làm người. Hơn thế, văn bia còn cho chúng ta biết những bài học vô giá về đạo trị quốc, xây dựng và phát triển đất nước luôn phải quan tâm, đào tạo nhân tài. Vai trò của hiền tài đối với quốc gia được khẳng định, nhắc đi nhắc lại trong hầu hết các bài ký, cho thấy đây là một quốc sách, là điểm cốt lõi trong đạo trị quốc. Đây cũng chính là bài học quý cho đương thời và hậu thế.

    Nghệ thuật tôn vinh độc đáo

    Không phải đến triều Lê nước ta mới có những khoa thi để tìm kiếm nhân tài. Và cũng không phải đến khi bia Tiến sĩ được dựng lên thì thành tựu của sĩ tử mới được ghi nhận và tôn vinh. Lịch sử đã ghi nhận những cách thức vinh danh, khuyến khích sĩ tử “nấu sử sôi kinh” để trở thành nhân tài rất đa dạng như: miễn phu phen, lao dịch cho người có thành tích trong học tập, thi cử; ghi tên Bảng vàng treo cổng kinh thành; Ban mũ áo, ghi tên vào sách đăng khoa lục… Nhưng có thể thấy, việc dựng bia Tiến sĩ đã tác động to lớn đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo nhân tài của đất nước, không chỉ với đương thời mà còn cả với các thế hệ mai sau. Được ghi tên trên bia là niềm khích lệ lớn trong việc học tập, rèn luyện để trở thành người có ích cho đất nước và xã hội. Điều này đã được khẳng định trong Văn bia Bia Tiến sĩ khoa thi năm1481: “Cốt để cho bọn cài hốt bên lưng, ra vào nơi cung điện, mắt nhìn, miệng đọc, bồi hồi, ngóng trông, kính mến mà ao ước. Đó là bộ máy để kích động lòng người và là một việc hay có ý nghĩa trọng đạo của đời thịnh đối với nền chính trị và phong hoá quan hệ rất lớn”.

     style=

    Du khách nước ngoài tham quan bia tiến sĩ. (Ảnh: Đinh Công Hoan)

    Những bài ký trên bia còn chỉ ra những bài học, cách thức tu dưỡng để trở thành những con người có ích cho quê hương, đất nước. Những lời khuyên về lối sống, tu dưỡng rất cụ thể, chân thành, bởi đó chính là kết tinh, trải nghiệm của người viết, là tâm huyết đối với hậu thế, với giang sơn đất nước: “Theo hầu trong cung phải giúp đức cho vua, giúp ơn cho dân; trấn nhậm một phương phải làm bình phong phên dậu. Người giữ chức cao phải đem khả năng bàn nói để hết chức phận can gián của mình…” (Văn bia khoa thi năm 1691), “Tuổi già tiết cứng, nêu gương cho phường hậu tiến, hun đúc nên tập tục trung tín liêm sĩ, chớ cậy may mắn lợi dụng vơ vét” (Văn bia khoa thi năm 1760)…

    Những bài học, kinh nghiệm sống cha ông, của thế hệ trí dũng, tài đức lưu lại trên bia đá được kiểm nghiệm, minh chứng qua thời gian. Đó là những bài học kinh nghiệm vô cùng quý cho mọi thời đại, trong mọi hoàn cảnh, để phát triển bền vững đất nước.

    Ngày nay bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn có sức hút mạnh mẽ đối với các học giả, du khách, chính khách trong và ngoài nước. Rất nhiều nguyên thủ quốc gia, chính khách quan trọng của các nước trên thế giới đã đến đây và đánh giá cao giá trị và ý nghĩa của những tấm bia Tiến sĩ.

    Tháng 3 năm 2010, Uỷ ban Ký ức thế giới Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã công nhận bia Tiến sĩ là Di sản tư liệu – Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, và tháng 5 năm 2011, Tổng giám đốc UNESCO đã công nhận 82 bia Tiến sĩ là Di sản tư liệu và ghi vào danh mục Ký ức thế giới toàn cầu. Ngày 14 tháng 1 năm 2015, Thủ tướng chínhphủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã công nhận 82 bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám là Bảo vật quốc gia. Đây chính là sự đánh giá, công nhận giá trị đặc biệt của bia Tiến sĩ tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám đối với nền văn hóa, giáo dục của dân tộc Việt Nam nói riêng, của toàn nhân loại nói chung.

    7 điều cần biết khi tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám – Biểu tượng của thủ đô Hà Nội


    Được mệnh danh là ngôi trường đại học đầu tiên tại Việt Nam, Văn Miếu Quốc Tử Giám – nơi chứa đựng tinh hoa của những giai đoạn lịch sử phong kiến dân tộc cũng như lưu giữ rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống đất nước.

    Vai trò lịch sử và hệ thống kiến trúc — 1000 Years Thang Long (VietNamPlus)

    Văn Miếu được lập ở Hà Nội, bấy giờ là Thăng Long, năm 1070, cách đây hơn 9
    thế kỷ.

    Sự việc đó phải chăng báo hiệu sự thâm nhập của Nho giáo ở nước ta? Không. Sự
    thâm nhập này chỉ xảy ra bốn thế kỷ sau từ đời Lê Thánh Tông. Năm 1070, triều
    Lý vẫn “tam giáo đồng tôn” và đạo Phật trong ba đạo: Phật giáo, Lão giáo, Nho
    giáo vẫn còn giữ nguyên ưu thế tuyệt đối.

    Ý nghĩa chính của sự việc lập Văn Miếu được Đại Việt sử ký toàn thư nêu rõ bằng
    một chi tiết cụ thể: … “Hoàng thái tử đến đấy học”. Như vậy ngay từ ngày đầu xây
    dựng Văn Miếu của một số nước như Trung Quốc, Triều Tiên, chỉ là nơi thờ cúng
    các vị tổ đạo Nho.

    Năm 1076, vua Lý Nhân Tông thành lập Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu. Nhà quốc
    học chính thức đầu tiên của lịch sử giáo dục Việt Nam ra đời từ đó. Nhà vua đã:
    “Chọn quan viên văn chức người nào biết chữ cho vào Quốc Tử Giám”.

    Việc lập Văn Miếu là một bước tiến của đạo Khổng. Quốc Tử Giám đánh dấu một bước
    phát triển của nền giáo dục nước ta. Tuy rằng giáo dục mới dừng lại ở tầng lớp
    trên trước hết, nhưng một số học sinh ưu tú trong dân gian cũng được tuyển vào
    học ở đó.

    Ý nghĩa của việc lập Văn Miếu năm 1070 và lập Quốc Tử Giám năm 1076 không đóng
    khung trong địa hạt văn hóa. Trong nhân dân vừa giành được quyền tự chủ sau hơn
    1000 năm đô hộ, đang dâng lên một sức sống phi thường. Ý thức giữ gìn và củng cố
    độc lập, khẳng định bản lĩnh, là tư tưởng chỉ đạo của mọi hoạt động tổ chức,
    quân sự, văn hóa, đều hướng tới phục vụ sự nghiệp tự cường của dân tộc. Năm 968,
    họ Đinh xưng đế; năm 1010 họ Lý định đô nơi “rồng” báo điểm lành. Năm 1076,
    trước binh hùng tướng mạnh Bắc Triều, Lý Thường Kiệt cho “thần” ngâm bài thơ lẫy
    lừng sông Như Nguyệt:

    “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”

    Việc lập Văn Miếu Quốc Tử Giám như vậy là nhằm đào tạo lớp quan liêu trị nước,
    nằm trong phương hướng vươn lên của thời đại.

    Năm 1253, vua thứ hai của nhà Trần là Trần Thánh Tông đổi Quốc Tử Giám thành
    Quốc Học Viện làm nơi giảng dạy cho con em vua quan và những người học giỏi
    trong cả nước. Chức năng của một trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng
    của một nơi tế lễ làm cho giá trị lịch sử của Quốc Tử Giám. Văn Miếu cùng ngày
    càng được nâng cao. Trường Quốc học Giám được nâng dần lên tới mức đại học và
    chính thức được đạt lên Thái Học Viện. Suốt hơn ba thế kỷ triều Lê trường Quốc
    học không hề đổi chỗ. Quốc Tử Giám 5 năm đón học sinh khắp nơi vào học và cứ mỗi
    khoa thi, cửa nhà Thái Học lại treo bảng ghi tên những Tiến sĩ trúng tuyển, dân
    chúng đất “Trường An” (Thăng Long) lại một lần lũ lượt tới xem. Cảnh nhộn nhịp
    tưng bừng thật không sao tả xiết.

    Năm 1484 (Hồng Đức năm thứ 15), Lê Thánh Tông chủ trương ghi lên bia đá tên tuổi
    những nhà khoa học xuất sắc. Từ khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê, năm 1442
    trở đi, (chủ trương đã đề ra năm này nhưng chưa thực hiện). Mỗi khoa, một tấm
    bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp,
    và riêng trong thời gian hơn 30 năm làm vua (1460 – 1497), Lê Thánh Tông đã tổ
    chức đều đặn cứ ba năm một lần đúng 12 khoa thi.

    Nhà bia được dựng, lần lượt tiếp nhận những tấm bia (đề danh” của từng khoa thi.
    Thật ra chẳng bao lâu sau thời thịnh trị của những niên hiệu Quang Thuận – Hồng
    Đức, không phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khắc bia ngay, và không
    phải bia đã dựng thì vĩnh tồn, không hư hỏng, không mất mát. Từng thời có những
    đợt dựng, dựng lại lớn, như năm 1653 (Thịnh Đức năm thứ 1), năm 1717 (Vĩnh Thịnh
    năm thứ 13).

    Cuối Triều Lê, thời Cảnh Hưng, bia vẫn được khắc đều đặn. Dù không còn giữ được
    đủ bia, nhà bia trường Giám cũng đã lưu lại về sau rất nhiều những công trình
    điêu khắc giá trị và tư liệu lịch sử quý báu.

    Tới thời Nguyễn, các vua nhà Nguyễn đóng đô ở Huế, nhà Quốc học cũng được rời
    vào Huế. Trường Giám được đổi tên làm Văn Miếu với một chức năng duy nhất là
    nơi thờ tự “thành hiền” mà thôi.

    Tên Quốc Tử Giám không còn được chính thức gọi nữa, nhưng giá trị lịch sử của
    di tích Quốc Tử Giám chẳng lu mờ. Tên Giám nôm na vẫn được đặt cho phố, cho chợ,
    và tồn tại cho đến hôm nay.

    I. Kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám

    Một khung tường xây vây toàn bằng những viên gạch vồ cỡ lớn – một loại vật liệu
    kiến trúc phổ biến của thời Hậu Lê tường để trần, hình chữ nhật, chiều dài hơn
    300 mét, chiều rộng 70 mét, chạy dài suốt từ đường Quốc Tử Giám vắt ngang tới
    tận đường Nguyễn Thái Học, tự thân nó qua dáng bên ngoài đã gây nên một không
    khí cổ kính. Bất cứ ai qua đây dù vô tình cũng không thể nào không tìm hiểu, ít
    nhất đôi điều, xem đây vốn là nơi nào? Di tích của một thời đại nào?

    Bên trong tường, những mái kiến trúc cổ ẩn hiện dưới cành lá sum suê của những
    cây cổ thụ mang một cảnh sắc khác hẳn mọi kiến trúc của những dãy phố xung
    quanh, càng thu hút sự chú ý của mọi khách qua đường.

    Đó là khu di tích lịch sử Quốc Tử Giám – Văn Miếu. Khu di tích rộng khoảng 6 mẫu
    Bắc Bộ này bên ngoài có tường vây bốn phía, bên trong chia làm năm khu vực phần
    minh cũng ngắn cách bằng những bức tường ngang xây gạch vồ như gạch bốn tường
    vây.

    Dẫu chỉ có như vậy, phạm vi của khu di tích xưa vốn còn vươn qua cả đường Quốc
    Tử Giám bao gồm cả chiếc hồ mà ngày nay do chưa được sửa sang đã làm cho ta lầm
    tưởng chỉ là một trong hàng chục chiếc hồ chứa nước bình thường của thành phố.

    Chúng ta hãy xem thứ tự từ trước tới sau, từ ngoài vào trong từng bước tìm hiểu
    dấu tích từ nguyên sơ đến hiện đại của khu di tích lịch sử hiếm có này.

    – Văn Hồ

    Trước cửa Văn Miếu ngày nay, ở bên kia đường nhựa mang tên Quốc Tử Giám, có một
    cái hồ khá rộng, giữa hồ nổi một quả gò, trên gò vốn có bia và đình bia, có cây
    cổ thụ. Ngày xưa nơi đây vốn là một cảnh rất đẹp và nên thơ. Di tích này rên gọi
    Văn Hồ. Theo ý đồ kiến trúc, đây vốn là cái “tiểu minh đường” của Văn Miếu, là
    một bộ phận khăng khít của toàn bộ công trình kiến trúc chung.

    Năm 1863 trong dịp sửa nhà bia Văn Miếu, Văn Hồ đã được một lần tu sửa. Sự việc
    còn ghi lại rõ ràng trên tấm bia đá dựng ở gõ giữa hồ.

    – Bài ký ở Đình bia Văn Hồ

    Trước Văn Miếu có hồ lớn. Trong hồ có gò Kim Châu Vào khoảng niên hiệu Cảnh Trị
    (1668 – 1671). Tham tụng họ Phạm (Phạm Công Trứ) làm 10 bài thơ vịnh Phán Thủy
    (chỉ nhà Thái học) để ghi lại cảnh đẹp. Lâu ngày cát đọng lại, cỏ dại mọc lan,
    lòng hồ ngày càng nông cạn thu hẹp. Mùa thu năm Quý Hợi, niên hiệu Tự Đức (1963)
    tôi cùng Bố chánh họ Đặng (Đặng Tá) dựng nhà bi Tiễn sĩ, sau lại sửa sang khu
    hồ, mở rộng chỗ hẹp, khơi sâu chỗ nông, phá chỗ rậm rạp cho phong quang để thấy
    rõ cảnh tri của hồ, của núi, khiến hồ thay đổi trở nên đẹp đẽ. Mùa thu năm Ất
    Sửu (1865) sứ quan họ Đặng lại xuất tiền nhà dựng đình bằng ngói trên gò. Đình
    làm xong gọi là đình Văn Hồ. Cho khắc lại 10 bài thơ vịnh Phán Thủy, dặn tôi ghi
    lại chuyện đó.

    Tôi nói: Thăng Long là đất danh thắng. Văn Miếu ngày nay là nhà Thái học ngày
    xưa, thực là chỗ tập trung văn vật. Một gò, một nước tôn lên nổi bật, thật là
    hợp cho việc du ngoạn. Từ nay về sau lên trên đình này nhìn cây cỏ rậm rì, ngắm
    nước hồ trong suốt, hưởng khí gió xuân trên sông Ngân, há chẳng phải thỏa lòng
    mong ước và sảng khoái tâm thần sao?

    Việc đó đáng ghi vậy.

    Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Tân Hợi, thự Bố chánh Hà Nội, Lê Hữu Thanh kính ghi.

    Cử nhân khoa Tân Sửu, Án sát Hà Nội, Vọng Đình Đặng Tá kính duyệt.

    Phó bảng khoa Nhâm Tuất lãnh Trị huyện 2 huyện Thọ – Vĩnh Phạm Xuan Thạch thừa
    lệnh kiểm lại.

    Tả trấn cơ Hiệp quản Nguyễn Viện, Niết ty thư lại Mai Xuân Bách thừa lệnh làm.

    Ngày 15 tháng 8 niên hiệu Tự Đức năm thứ 18 (1865).

    Hạt Hạ huyện Vĩnh Thuận, thôn Yên Ninh, Tú tài Trần Quang Luyện kính viết.

    Hồ này và cả một dài đất chạy suốt chiều dài mé tây của Văn Miếu đều là thuộc
    đất khu Văn Miếu. Sau khi Hà thành thất thủ, không có người trông nom, mọi sự
    chăm sóc chỉ tập trung vào khu phía trong 4 bức tường vây. Tới khoảng năm 1937 –
    1938 các văn thân Hà Nội, Hà Đông cùng những nhà nho mới làm giấy xin nhận lại
    hồ và đất ấy. Hồi ấy có dự định sửa sang Văn Hồ trồng nhãn Hưng Yên, vải Thanh
    Liệt trên dải đất mới nhận lại nói trên. Việc chưa tiến hành đã tiếp tới cuộc
    binh lửa năm 1946.

    Một hồ nước trong, quanh bờ cây cối rậm mát, một gò đất nổi giữa hồ trên có một
    kiến trúc nhỏ đẹp lẩn dưới cành là sum suê, cảnh này mở đầu cho một khu kiến
    trúc sẽ trở thành một tấm gương soi, nhân đôi cảnh trí có tác dụng gây cho khách
    tham quan cảm giác mát mẻ dịu dàng ngay từ khi mới đặt chân vào khu kiến trúc.

    -Văn Miếu môn.

    Hai tấm bia “Hạ mã” dựng trong 2 nhà bia nho nhỏ là mốc ranh giới chiều ngang
    phía trước mặt. Xưa kia dù công hầu hay khanh tướng, dù võng lọng hay ngựa xe hễ
    đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia “Hạ mã” bên này sang tới
    tấm bia “Hạ mã” bên kia mới lại được lên xe lên ngựa mà tiếp tục hành trình. Thế
    đủ biết Văn Miếu có vị trí tôn nghiêm tới chừng nào.

    Một sân đất thênh thang từ bia “hạ mã” tới tường phía trước của Văn Miếu là
    khoảng thứ nhất bên ngoài. Sân này bị còn đường lát gạch sẻ đôi. Đường thẳng tắp
    qua cổng giữa rồi nối với những đoạn phía trong, thành một đường trục giữa xuyên
    suốt khu kiến trúc tạo nên kiểu dáng đối xứng tuyệt đối, một kiểu mặt bằng quen
    thuộc quán xuyến hầu hết các đồ án kiến trúc thời cổ đại.

    Văn Miếu môn tức là cổng tam quan ngoài cùng tận. Cổng có ba cửa, cửa giữa cao
    to và xây 2 tầng. Tầng trên có ba chữ “Văn Miếu Môn”. Di tích còn lại ngày nay
    là sản phẩm của thời Nguyễn, có chăng chỉ những viên gạch vồ sử dụng để xây nên
    cổng này là di tích cổ nhất thuộc thời Lê (khoảng thế kỷ 16 trở lại).

    Kiểu dáng kiến trúc Văn Miếu môn nhiều nét độc đáo rất đáng lưu ý trong khi
    nghiên cứu kiến trúc cổ Việt Nam. Nhìn bên ngoài tam quan là 3 kiến trúc riêng
    biệt. Cửa chính giữa thực chất xây 2 tầng. Mặt bằng hình vuông. Tầng dưới to,
    tầng trên nhỏ chồng lên giữa tầng dưới, do đó xung quanh thừa ra một hàng hiên
    rộng, 4 mặt có lan can. Phía bên ngoài tầng dưới chỉ mở có một cửa cuốn, 2 cánh
    bằng gỗ và mi cửa hình bán nguyệt cũng bằng gỗ chạm nỏi hình đôi rồng chầu mặt
    nguyệt. Phía bên trong lại mở 3 cửa cuốn không có cánh. Tầng trên làm 8 mái, 4
    mái hiên và 4 mái nóc, do đó dáng ngoài nom tựa một kiến trúc 2 tầng, và cả cổng
    chính có dáng của một kiến trúc 3 tầng. Mái tầng trên làm cong lên ở 4 góc. Bờ
    nóc cũng có đắp đôi rồng chầu mặt nguyệt. Tầng trên không có treo chuông khánh.

    Phía ngoài cửa cổng có 2 đôi câu đối lề không rõ niên đại, tới nay vẫn còn rõ
    nét chữ.

    Câu đối thứ nhất:

    1a. Đại quốc bất dịch giáo, bất biến tục, thả tôn sùng chi, diệc tín tư văn
    nguyên hữu tự.

    1b. Ngô Nho yếu thông kinh, yếu thức thời, vô câu cố dã, thướng tư thánh huấn
    vĩnh tương dôn.

    Dịch nghĩa.

    Nước lớn trong giáo dục, giữ thuần phong, đạo được tôn sùng, tin tưởng tư văn
    nguyên có gốc.

    Nhà Nho phải thông kinh, phải thức thời, chớ nên cố chấp, những lời thánh huấn
    phải ghi lòng.

    Phía trong cổng một đôi câu đối nề khác cũng không có niên đại.

    2a. Sĩ phu báo đáp vị hà tai! Triều đình tạo tựu chi ân, quốc gia sùng thượng
    chỉ ý.

    2b. Thế đạo duy trì thi thử nhi! Lễ, nhạc, y, quan sở tụy, thanh danh vạn vạt sở
    đô.

    Dịch nghĩa:

    Sĩ phu còn nhiều báo đáp, ơn triều đình đào tạo, ý nhà nước tôn sùng.

    Thế đạo nhờ đó duy trì chốn lễ nhạc, y quan, nơi thanh danh vạn vật.

    Tả môn và hữu môn hai bên nhỏ, thấp hơn cũng xây kiểu 4 mái hiên và 4 mái nóc,
    nom tựa như kiến trúc 2 tầng. Hai cửa này xưa kia là nơi đóng mở ra vào hàng
    ngày, còn cửa chính thì quanh năm cửa đóng then cài mà chỉ mơ vào những dịp long
    trọng như vua chúa tới thăm, những ngày tế lễ hoặc những khi treo bảng vàng các
    khao thi Tiến sĩ.

    – Đại Trung môn .

    Từ cổng chính Văn Miếu môn, theo đường lát gạch đi thẳng tới cổng thứ hai là Đại
    Trung môn. Ngang hàng với Đại Trung môn, bên trái có Thánh Dực môn, bên phải có
    Đạt Tài môn. Bức tường ngang nối 3 cửa vươn dài ra 2 bên tới tận tường vây dọc
    bên ngoài. Hai bên tả hữu của cả khu Văn Miếu, cùng với tường ngang nơi Văn Miếu
    môn tạo thành một khung hình gần vuông có tường vây khép kín ra vào bằng Văn
    Miếu môn, Tả môn và Hữu môn ở phía trước và bằng Đại Trung môn, Tánh Dực môn và
    Đạt Tài môn ở phía sau.

    Trong khu vực này không có kiến trúc nào cả, chỉ trồng cây to bóng mát gần kín
    khắp mặt bằng. Hai chiếc hồ chữ nhật nhỏ nằm dài sát theo chiều dọc của tường
    vây dọc bên ngoài. Cây xanh, bóng mát, nước trong, cảnh tí gây nên cảm giác tĩnh
    mịch, thanh nhã của nơi “văn vật sở đô”.

    Cửa Đại Trung làm kiểu 3 gian có nền cao, có mái lợp ngói, 2 hàng cột hiên trước
    sau và 1 hàng cột chống nóc ở chính giữa. Hàng cột này chính là nơi để lắp cánh
    cửa, song ở cửa này không làm cánh. Ở gian giữa treo một tấm biển nhỏ đề 3 chữ
    sơn then “Đại Trung môn”

    Con đường lát gạch từ Văn Miếu môn tới Đại Trung môn lại vươn tiếp thẳng tới
    khuê Văn Các. Từ 2 cửa Đạt Tài và Thánh Dực ở 2 bên cửa Đại Trung 2 con đường
    lát gạch khác nhỏ hơn chạy thẳng song song với con đường trục giữa chia khu vực
    thứ 2 này thành 4 dải khá cân bằng. Hai hồ nước hình chữ nhật được đào ở vị trí
    tương tự như 2 hồ nước ở khu vực thứ nhất.

    Cảnh trí khu vực thứ 2 này không khác gì mấy ở khu vực thứ nhất. Vốn cũng chỉ là
    những bãi cỏ, trồng ít cây cổ thụ rất cao tuổi đã cằn cỗi (hiện nay đã được
    trồng thêm nhiều cây mới theo hàng lối quy củ hơn).

    Việc lắp lại một khu vực chỉ có cây, có cỏ, việc làm thêm dãy tường ngăn và làm
    thêm 1 lớp cửa ra vào như thế này đã làm cho công trình sư thiết kế rất thành
    công trong ý đồ tạo nên cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch của khu vực kiến trúc.

    – Khuê Văn Các

    Khu vực thứ 2 két thúc ở bức tường ngăn ngang nối cửa Bi văn, gác Khuê văn và
    cửa Súc văn.

    Gác Khuê văn là một lầu vuông 8 mái xây dựng vào năm 1805, đời Gia Long triều
    Nguyễn. Gác dựng trên một nền vuông cao lát gạch bát tràng. Kiểu dáng kiến trúc
    khá độc đáo. Tầng dưới chỉ là 4 trụ gạch, 4 bề trống không. Tầng trên là kiến
    trúc gỗ trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc làm bằng
    chất liệu đất nung hoặc vôi cát.

    Sàn gỗ có chứa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm gỗ chạm
    trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt
    ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thành gỗ chống tỏa ra 4 phía. Cửa
    và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khuê và những tia sáng của sao. Mé
    trên sát mái phía cừa ngoài vào treo một biển sơn son thếp vàng 3 chữ “Khuê Văn
    Các”. Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một câu đối chữ Hán thép vàng. Cả 4 đôi đều rất
    có ý nghĩa.

    Bốn đôi câu đối chạm vào tường gỗ gác Khuê Văn được dịch nghĩa như sau:

    1a. Sao Khuê trời sáng, văn minh rộng

    1b. Sông Bích xuân sâu, mạch đạo dài

    2a. Triều ta tô điểm nhiều văn trị

    2b. Gác đẹp văn hay đón khách xem

    3a. Bắc Đẩu soi thành nhiều khi tốt

    3b. Đầm thu bóng nguyệt sáng lòng xưa

    4a. Nước lễ nghĩa nghìn năm văn hiến

    4b. Phủ đồ thư một mối thánh hiền.

    Gác Khuê Văn vốn là nơi xưa kia dùng để họp bình những bài văn hay của các sĩ tử
    đã thi trung khoa thi hội.

    Gác nhỏ xinh, kiến trúc giản dị nhưng tao nhã, đặc biệt lại được chọn dựng giữa
    những cây cổ thụ xanh tốt, cạnh giếng Thiên Quang đây nước trong in bóng gác
    rung rinh. Gác Khuê Văn xứng đáng với lời bình là một viên ngọc trong khu di
    tích kiến trúc Văn Miếu Hà Nội.

    Cửa Bi văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Thánh Đức bên trái Bi văn
    có nghĩa là trang sức nên vẻ đẹp. Ý nói văn chương trau chuốt sáng sua, có sức
    truyền cảm thuyết phục con người.

    Cửa Súc văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Đạt Tài bên phải Súc Văn
    có nghĩa là văn chường hàm súc phong phú, có khả năng nuôi dưỡng vẻ đẹp của tâm
    hồn.

    Hai cửa này cùng với gác Khuê Văn đồng thời mở đầu hco khu vực thứ ba, khu vực
    giếng Thiên Quang và 2 vườn bia Tiến sĩ.

    – Giếng Thiên Quang

    Giếng Thiên Quang (Thiên Quang tỉnh) còn được gọi là Văn Trì (Ao Văn. Thiên
    Quang là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng, người xây dựng có ý muốn nói
    con người thu nhận được tinh thúy của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm
    chất, tô đẹp nền nhân văn.

    Giếng Thiên Quang quanh năm đầy nước. Mặt nước bằng phẳng trở thành một tấm
    gương soi bóng gác Khuê Văn và những cây cổ thụ, do đó cảnh trí được nhân đôi
    mức độ mỹ quan. Đôi khi gió thổi nhẹ mặt nước hơi gợn sóng lăn tăn, thì bóng gác
    Khuê Văn do đó cũng lung linh lay động nhẹ nhàng cảnh sắc càng trở nên vô cùng
    đẹp mắt.

    Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng. Người xưa còn
    có quan niệm giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng
    trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa
    giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này.

    Hai bên tả hữu lan can giếng mở cửa xây bậc xuống giếng, ý đồ xây dựng là mở lối
    xuống giếng để rửa và lấy nước tưới hoa, song không khí tôn nghiêm nơi đây đã
    khiến khách tham quan chẳng ai dám xuống rửa dưới hồ như ai cũng lo làm ô uế mất
    đi tích thiêng liêng của ngàn năm văn hiến. Mé ngoài lan can có trồng hoa đủ
    loại. Hoa lá xanh tươi càng tôn thêm màu trang nhã của “Ao Văn”. Một còn đường
    nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho phép ta có thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê
    Văn, vào cửa Đại Thành hoặc rẽ sang 2 vườn bia đá ở 2 bên.

    – Bia Tiến sĩ

    Có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở 2 bên phải
    trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đêu
    quay về phía giếng.

    Cả 2 bên, giữa mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông, 4 mặt bỏ trống, nền cao,
    giữa nền có bện, cửa đều trông thẳng xuống giếng. Đây là 2 tòa đỉnh thờ bia. Xưa
    kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu là lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật
    cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quí tính cao danh còn khắc trên bia đá.
    Trong 82 tấm bia còn lại tới ngày nay, tấm sớm nhất dựng vào năm 1484, khắc tên
    các vị Tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) tấm cuối
    cùng dựng vào năm 1780, khắc tên Tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm
    thứ 40 (1779). Từ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng
    là khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống năm thứ nhất (1787) tính cho đủ phải tới
    124 khoa thi đình, nếu chỉ kể các khoa thi Tiến sĩ, không kể các khoa Đông Các
    và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa, và theo đúng điển lệ triều Lê thì phải lập
    đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế nhưng trải qua bao cơn binh lửa, vật đổi sao
    dời, số bia hiện có chỉ còn 82 tấm. Nhiều tấm ngày nay chữ đã mờ không sao đọc
    nổi. Nhiều tấm bia nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ phải gắn chắp lại. Tháng
    4 năm 1976 Viện Khảo cổ học phối hợp với phòng Bảo tồn bảo tàng, sở Văn hóa
    Thông tin Hà Nội đã khai quật được thêm một con rùa đá đề bia chìm sâu
    dưới lòng hồ cạnh Khuê Văn Các. Thân bia chưa thấy, song còn rùa để bia
    đã nâng con số bia Tiến sĩ lên số 83. Non 5 thế kỷ chuyện nương dâu bãi
    bể tất chẳng tính hết.

    Lần tu sửa nhà bia cuối cùng vào niên hiệu Tự Đức năm thứ 16 (1863).
    Hồi ấy Bố chính Hà Nội là Lê Hữu Thanh cùng với thự Hậu quân Đô
    Thống, Tổng đốc Hà Ninh là Tôn Thất Hân và Án sát Hà Nội là Đặng
    Tá khởi xướng việc thu tập các bia tản mát dựng vào hàng lói như
    ngày nay, rồi làm 2 nhà bia cũng không còn nữa.

    Những năm thực dân Pháp xâm lược tạm chiếm Hà Nội, 2 vườn bia có lúc
    hoang vắng, cỏ cao lụt đầu làm cho có nhà nghiên cứu muốn vòa tìm tư
    liệu mà phải “rụt chân lại, dùng dằng, nấn ná…”.

    Sau ngày Miền Bắc giải phóng 1954 cơ quan văn hóa Hà Nội đã liên tục
    từng bước tu sửa và bảo vệ khu di tích Quốc Tử Giám. Hiện nay 2 vườn
    bia đã sạch sẽ phong quang khách trong nước cũng như nước ngoài, ngày
    nào cũng tấp nập tham quan, những nhà nghiên cứu, điêu khắc, họa sĩ
    cũng tới đây sao chép nghiên cứu không ngớt.

    – Đại Thành môn.

    – Ngọc Thành môn và Kim Thành môn

    Qua cửa Đại Thành là vào khu vực thứ tư, khu vực chính cuả di tích
    Quốc Tử Giám – Văn Miếu, Hà Nội. Cũng như cửa Đại Trung, cửa Đại
    Thành là một kiến trúc 3 gian với 2 cột hiên trước sau và 1 hàng cột
    giữa. Hàng cột giữa đỡ sà nóc, đồng thời cũng là hàng cột để lắp
    cửa. Ba gian đều được lắp cửa 2 cánh. Chính giữa, trên giáp nóc có
    treo một bức hoành khắc 3 chữ “Đại Thành Môn” (cửa Đại Thành) theo
    chiều ngang, đọc từ phải sang trái. Bên phải 2 hàng chữ nhỏ dọc khắc
    “Lý Thánh Tông, Thần Vũ nhị niên, Canh Tuất thu, bát nguyệt phụng
    kiến”, có nghĩa là: “Tháng 8, mùa thu năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ
    năm thứ 2 đời Lý Thánh Tông vâng sắc xây dựng. Bên trái 1 hàng chữ dọc
    khắc. “Đồng Khánh tam niên, Mậu Tý trọng đông đại tu “có nghĩa là
    “tháng 11 năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 3 đại tu”.

    Bức hoành sơn thếp giản dị, là sản phẩm của năm 1888, song nó là minh
    chứng cho một lần tu sửa lớn vào thời vua Đồng Khánh nhà Nguyễn, và
    cũng là một bằng cứ gián tiếp cho năm khởi dựng Văn Miếu vào thời
    vua Thánh Tông nhà Lý.

    Cửa Đại Thành (cửa của sự thành đạt lớn lao), mở đầu cho khu vực
    của những kiến trúc chính, nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất
    thập nhị hiền v.v…và cũng là nơi giảng dạy của trường Giám thời xưa,
    mang một cái tên đầy ý nghĩa tưởng không còn có thể chọn một tên nào
    có ý nghĩa hay hơn.

    Hai cửa nhỏ Kim Thành bên phải và Ngọc Thành bên trái nằm ngang với
    cửa Đại Thành, song 2 cửa này không mở vào thẳng khu vực chính, mà
    để đi qua con đường lát gạch phía sau 2 dãy Tả Vu, Hữu Vu để tiếp tục
    qua ang khu Khải Thánh phía cuối cùng của di tích.

    – Văn Miếu. Tả vu và Hữu vu

    Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch bát
    tràng. Hai bên phải trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả vu. Chính
    trước mặt tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn và thâm nghiêm trải
    suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2
    bên, tạo thành một cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và truyền
    thống. Sau Đại Bái và song song với Đại Bái, tòa Thượng Điện có quy
    mô tương tự cả về chiều cao lẫn bề rộng, với Đại Bái là kiến trúc
    chấm chót của khu vực thứ 4. Đại Bái đường nối với Thượng Điện bằng
    một Tiểu Đình hình vuông. Nếu tách riêng cụm 3 kiến trúc này ra mà
    nói thì chúng được xây dựng theo hình chữ công (I) mà Tiểu đình chính
    là nét sổ giữa và Đại Bái, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và dưới.

    Thượng Điện ở phía sau 9 gian, tường xây 3 phía lưng và đầu hồi, phía
    trước có cửa bức bàn đóng kín 5 gian giữa, 4 gian hồi có cửa chấn
    song cố định. Nhìn chung Thượng Điện kín đáo và do đó cũng tối hơn
    Đại Bái, nhưng cái thiếu ánh sáng của kiến trúc này là ý đồ của
    công trình sư muốn tạo cho nó một không khí thâm nghiêm, u tịch và công
    trình sư đã thành công mỹ mãn.

    Nơi đây xưa là nơi thờ những vị tổ đạo Nho. Gian chính giữa vốn có
    cái khám và ngai lớn để trên một bệ xây, trong có bài vị “Chí thánh
    tiên sư Khổng Tử”. Cách 2 gian 2 bên tới những gian khác cũng có bệ xây
    và cũng có khám, trong khám có ngai và bài vị. Bên trái có 2 ngai
    thờ Tăng Tử và Mạnh Tử (thờ các vị Á thánh); bên phải có 2 ngai thờ
    Nhan tử và Tử Tư. Bốn vị được thờ trên đây tức là Tứ phối được quy
    định thờ từ ngày mới xây dựng Văn Miếu. Ngoài bài vị ra, cả bốn vị
    đều có tượng gỗ sơn thếp rất uy nghi.

    Hai gian đầu hỗi cũng có 2 khám lớn xếp chầu vào gian giữa, thờ Thập
    triết gồm những vị: Mẫu Tử, Nhiễm Tử, Đoan Mộc Tử, Trang Tử, Bốc
    Tử, Hữu Tử, Tê Tử, Ngân Tử, Suyền Tôn Tử, Chu Tử.

    Tòa Đại Bái bên ngoài cũng xây 9 gian, nhưng chỉ xây 2 tường hồi còn
    mặt trước mặt sau để trống. Duy có 2 gian đầu của mặt trước có xây
    tường lửng, bên trên lắp chấn song con tiện bằng gỗ. Nhìn chung kiến
    trúc này sáng sủa hơn. Tòa Đại Bái này có chức năng là nơi hành lễ
    trong những kỳ tế xự xuân thu. Chỉ gian chính giữa có hương án thờ
    còn các gian khác đều bỏ trống. Tại đây treo khắc nhiều hoành phi câu
    đối (nhiều thứ nay đã mất). Bức hoành gian giữa khắc 4 chữ: “Khang Hi
    ngự thư” và “Đồng Khánh Mậu Tý trọng đông thuật đề” (1888).

    Cũng như Thượng Niên, Đại bái đường mang đậm phong cách kiến trúc thời
    Hậu Lê, kẻ bảy giản đơn không chạm trổ cầu kỳ, chồng đấu làm theo
    kiểu đấu đỡ cột chồng rất Việt Nam, những đầu đao mái cong nhẹ, ngói
    mũi lợp kiểu vẩy rồng, những nơi có chạm trổ rồng mây mang đúng phong
    cách nghệ thuật của thời Trung Hưng về sau, nói chung kiến trúc có
    sắc thái giản dị nhưng chắc chắn, thanh nhã mà uy nghiêm, một sắc
    thái Việt Nam riêng biệt rất dễ dàng nhận thấy, khác hẳn với phong
    cách kiến trúc đồng thời cuả những công trìnhở các nước láng giềng.
    Đôi rồng chầu mặt nguyệt gắn mảnh đồ sứ men màu trên đỉnh bờ nóc,
    chắc chắn được làm vào thời Nguyễn, có làm giảm đi ít nhiều giá
    trị cổ kính của kiến trúc song không sao át nổi đặc điểm chung của
    niên đại thời Lê.

    Tả Vu và Hữu Vu đều làm 9 gian. Xưa kia Tả Vu và Hữu Vu đều mỗi bên
    xây 5 bệ kê 5 khám thờ Thất thập nhị hiền. Kiến trúc cũ đã bị phá
    hủy sạch cả, kiến trúc hiện còn là sản phẩm của lần trùng tu thời
    gần đây. Bệ thờ, khám thờ cũ không còn, Tả hữu vu nay cũng chẳng
    dùng để thờ tự, dáng dấp kiến trúc không có vị cổ kính như Đại Bái
    và Thượng Diện, nhưng do vẫn làm trên nền cũ, phần nào phỏng theo
    kiểu cũ mà làm và hiện lại dùng làm nơi trưng bày các di vật lịch
    sử và cách mạng của kinh đô Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội cho nên cũng
    góp phần quan trọng vào cảnh trí chung của cả khu di tích.

    – Đền Khải Thánh – Quốc Tử Giám

    Khu Khải Thành là khu sau cùng của di tích. Từ Văn Miếu sang đền Khải
    Thánh người ta có thể đi theo 2 con đường lát gạch phía sau Tả Vu và
    Hữu Vu, người ta cũng có thể từ sau lưng Thượng Điện qua cửa tam
    quan.Cửa này là cửa chính cũng xây 3 gian, có mái lợp và cánh cửa
    đóng mở. Từ bên ngoài vào đền Khải Thánh người ta lại có thể qua
    một cổng nhỏ có cánh mở ở góc Đông Nam nơi tiếp giáp với bức tường
    ngăn 2 khu Văn Miếu và Khải Thánh.

    Đền Khải Thánh là nơi thờ cha mẹ Khổng Tử tức là Thúc Lương Ngột và
    Nhan Thị.

    Phần nửa diện tích của khu này là chiếc sân phía trước. Sân bị con
    đường trục giữa lát gạch ngăn đôi dẫn từ cửa tam quan lên chính giữa
    đền thờ. Nửa sân bên trái có 2 tấm bia do Hoàng giáp Lê Hữu Thanh bố
    chính Hà Nội. Thự hậu quân đô tốc Tôn Thất Hân, Tổng đốc hà Ninh; Hàn
    lâm thị giảng Đặng Tá, Án sát Hà Nội dựng ngày 6 tháng 12 niên hiệu
    Tự Đức năm thứ 16 (1863). Văn bia do Lê Hữu Thanh soạn. Quan văn bia có
    thể khảo cứu thêm được về tình hình bia tiến sĩ và nhà bia của Quốc
    Tử Giám. Thật cũng có thể gọi là một tư liệu quý.

    Kiến trúc đền Khải Thánh sơ sài hơn song cũng có Tả Vu, Hữu Vu 2 bên
    và đền thờ ở giữa.

    Đền Khải Thánh, xưa vốn là Quốc Tử Giám, nơi rèn đúc nhân tài cho
    nhiều triều đại.

    Năm 1946, quân Pháp đã bắn đại bác phá hủy sạch không còn lại một
    kiến trúc nào. Dấu vết còn lại ngày nay: những nền điện, tường đổ,
    vài chiếc cổng cuốn lở lói, những mảnh sân, đoạn đường, những bồn
    xây để trồng cây v.v…có chăng chỉ còn cho phép xây dựng lại mặt bằng
    của khu kiến trúc xưa mà thôi.

    Khổng Tử là người Trung Quốc. Nho giáo là sản phẩm bắt nguồn từ
    Trung Quốc. Chế độ dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử cũng do Trung Quốc chế
    định.

    Việc dựng Văn Miếu ở Việt Nam tất không thể không phỏng theo chế độ
    Trung Hoa. Song sự khác biệt giữa Văn Miếu Việt Nam và Văn Miếu Trung
    Quốc lại rất lớn và rất rõ ràng. Trước hết như trên đã nói Văn Miếu
    Hà Nội không chỉ là một nhà quốc tế mà vai trò chính của nó là
    một nhà quốc học.

    Về mặt kiến trúc cũng vậy, bàn tay người thợ Việt Nam đã tạo cho
    Quốc Tử Giám – Văn Miếu một sắc thái Việt Nam, một bố cục hoàn toàn
    khác hẳn.

    So sánh qua với kiến trúc thờ Khổng Tử ở Khúc Phụ, Trung Quốc, chẳng
    khó khăn gì mà ta không nhận ra những điểm dị đồng. Cả 2 nơi Khúc Phụ
    và Hà Nội đều có những kiến trúc mang tên chung như Đại Trung Môn, Khuê
    Văn Các v.v…Thế nhưng điểm giống nhau chỉ là tên gọi mà thôi.

    Nhìn chung bố cục kiến trúc ở Khúc Phụ quy mô lớn hơn, đi từ đầu tới
    cuối phải qua 10 cổng; kiến trúc rậm rì hơn. Kiến trúc ở Hà Nội quy
    mô nhỏ hơn, đi từ đầu tới cuối chỉ qua 5 cổng, kiến trúc thoáng hơn
    song cảnh trí xung quanh như cây cối, hồ nước, thanh nhã, phong quang thì
    rõ ràng hơn hẳn.

    Khu Khải Thánh ở Khúc Phụ, xây dựng ở bên trái khu thờ Khổng Tử; ở
    Hà Nội lại đặt đằng sau và chính cũng là nơi trường Giám của những
    triều đại cũ.

    Nếu đi sâu vào từng kiến trúc từ cột kèo, chồng đấu, cho tới những
    bức ván chạm trổ thì một Trung Quốc, một Việt Nam không sao lẫn nổi.

    Cho dù bóng dáng kiến trúc thời Lý thời Trần nay không còn dấu vết
    nơi đâu, phần lớn các kiến trúc đều là sản phẩm thời lê mạt, song
    Quốc Tử Giám – Văn Miếu Hà Nội vẫn giữ được trọn vẹn giá trị của
    một khu di tích kiến trúc cổ Việt Nam xứng đáng được bảo tồn mãi
    mãi.

    Bạn có biết “Văn Miếu quốc tử giám thờ ai & ý nghĩa?”

    văn miếu quốc tử giám thờ ai

    Văn Miếu Quốc Tử Giám thờ ai? là băn khoăn của không chỉ em nhỏ mà người lớn có khi cũng rất lúng túng. Cùng Nếm tìm hiểu câu trả lời cho câu hỏi này nhé.

    Văn Miếu Quốc Tử Giám thờ ai?

    Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long.

    Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt.

    Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám và kiến trúc chủ thể là Văn Miếu – THỜ KHỔNG TỬ và Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của Việt Nam.

    Văn Miếu Quốc Tử Giám ở đâu hà nội

    Khu Văn Miếu Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác nhau.

    Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau. Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu, Đại Trung, Đại Thành và cổng Thái Học.

    Văn Miếu Quốc Tử Giám thờ ai và ở đâu
    Cổng Văn Miếu
    Văn Miếu Quốc Tử Giám thờ ai và ở đâu
    Đại Trung Môn Văn Miếu
    Văn Miếu Quốc Tử Giám thờ ai và ở đâu
    Đại Thành Môn

    Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước. 

    Ngoài Khổng Tử, Văn Miếu Quốc Tử Giám thờ ai?

    Ngoài ra Văn Miếu Quốc Tử Giám còn thờ hiệu trưởng trường đại học đầu tiên – Văn Miếu Quốc Tử Giám – Chu Văn An.

    Văn Miếu Quốc Tử Giám thờ ai và ở đâu
    Nơi thờ thầy Chu Văn An

    Chu Văn An đã nổi danh từ những năm tháng mở trường dạy học ở quê nhà với “học trò đầy cửa”. Và cũng chính do tài năng, nhân cách, phương pháp đào tạo học trò mà Thầy đã được vua Trần Minh Tông (1314-1329) mời đến Thăng Long giữ chức Quốc Tử Giám Tư nghiệp và dạy cho Thái tử Trần Vượng (tức vua Trần Hiến Tông sau này).