• HOME
    • Facebook
    • Instagram
    • Youtube
  • CÔNG TRÌNH
  • Leaf ‘stories
  • About us
  • LEAF Furniture Talks !
    • FOR YOU
    • Retail
    0.00 ₫(0 items)
    • HOME
      • Facebook
      • Instagram
      • Youtube
    • CÔNG TRÌNH
    • Leaf ‘stories
    • About us
    • LEAF Furniture Talks !
      • FOR YOU
      • Retail

    Table of Contents

        • Toàn cầu hóa là nền tảng thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới
        • Toàn cầu hóa và “mối họa” độc tôn
        • Tương lai của chuỗi giá trị và thương mại-P1
        • Khảo sát quốc tế: toàn cầu hóa vẫn được coi là quá trình mang lại tác động tích cực trên thế giới
        • Toàn cầu hóa, cơ hội và thách thức đối với ngành Thông tin – Thư viện Việt Nam
        • Kế toán tổng hợp là gì? Những kiến thức cơ bản cho người mới vào nghề
    • 1. Khái niệm kế toán tổng hợp là gì?  
    • 2. Kế toán tổng hợp làm những công việc gì?
      • Công việc hàng ngày: 
      • Công việc hàng tháng:
      • Công việc hàng quý:
      • Công việc hàng năm:
    • 3. Yêu cầu về kỹ năng kế toán tổng hợp là gì?
    • 4. Yêu cầu về trình độ vị trí kế toán tổng hợp
    • 5. Yêu cầu về những kiến thức mà kế toán tổng hợp cần học là gì?
        • Tác động của toàn cầu hoá đối với sự phát triển đội ngũ trí thức và Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
        • Toàn cầu hóa và tình trạng “chảy máu” nhân tài

    Toàn cầu hóa là nền tảng thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới


    Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự và phát biểu tại Lễ khai mạc Hội nghị Tương lai châu Á lần thứ 23. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

    Chủ nghĩa bảo hộ đang có xu hướng gia tăng tại một số nơi trên thế giới. Phương Tây, có thể coi là nơi khởi xướng tiến trình toàn cầu hóa, lại cũng chính là nơi mà các giá trị toàn cầu hóa đang bị lung lay. Đà toàn cầu hóa dường như đang bị chững lại khi các tư tưởng dân tộc chủ nghĩa trỗi dậy.

    Châu Á đang đứng trước lựa chọn tiếp tục theo đuổi toàn cầu hóa hoặc từ bỏ tiến trình này. Việt Nam cũng không nằm ngoài chuyển động này của kinh tế thế giới.

    Brexit (việc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu – EU) và kết quả bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2016 đã làm dấy lên những nghi ngờ về lợi ích của toàn cầu hóa.

    Trong bối cảnh này, xu hướng nghiêng về ưu tiên hợp tác trong khuôn khổ song phương đang được đẩy lên tại một số nước, trong đó có Mỹ, nền kinh tế hàng đầu thế giới.

    Một trong những diễn biến đáng chú ý của xu thế này là việc Mỹ rút khỏi Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đây thực sự là một động thái bất ngờ đối với không chỉ các nước thành viên TPP mà còn đối với một số nền kinh tế khác ngoài thỏa thuận này.

    TPP được đánh giá là một cơ chế hợp tác kinh tế thương mại đa phương chất lượng cao, được kỳ vọng là hình mẫu cho xu thế hợp tác kinh tế thế giới, trở nên bấp bênh khi một số nước hoài nghi về tương lai của nó.

    Thậm chí, một số quốc gia, trong đó có Indonesia, thừa nhận việc Mỹ tuyên bố rút khỏi TPP đã khiến họ không còn động lực tham gia.

    Tuy nhiên, cho dù có những nghi ngờ về hiệu quả cơ chế hợp tác kinh tế đa phương, tại châu Á, các chuyển động của tiến trình toàn cầu hóa vẫn diễn ra một cách tích cực.

    Các nỗ lực nhằm thúc đẩy hoạt động của các cơ chế hợp tác đa phương như TPP, Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP) và Sáng kiến “Vành đai và Con đường”… vẫn đang được triển khai mạnh mẽ.

    Đặc biệt, các diễn giả tham dự Hội nghị quốc tế Tương lai châu Á lần thứ 23 cho rằng, giờ đây chính là thời điểm để châu Á, vốn được đánh giá là khu vực năng động, cần phải gánh vác vai trò thực hiện thương mại tự do và bình đẳng.

    Trong xu thế này, với tư cách là các thành viên của TPP và RCEP, hai cơ chế đa phương quan trọng hàng đầu của khu vực, Việt Nam và Nhật Bản đang nổi lên là những quốc gia tích cực trong các nỗ lực thúc đẩy hội nhập khu vực.

    Trong bài phát biểu tại Hội nghị tương lai châu Á, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nêu lên sự thành công của Con đường Tơ lụa cổ đại, tạo nên một lộ trình thương mại nổi tiếng và thịnh vượng nối châu Á và châu Âu, để khẳng định rằng lịch sử đã chứng minh toàn cầu hóa không chỉ đơn thuần là một tiến trình kinh tế mà còn đáp ứng được mong muốn của nhân loại trong việc thúc đẩy hội nhập, trao đổi kinh tế trên cơ sở bình đẳng và vì lợi ích của tất cả các bên.

    Mỹ là một thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, song việc thiếu vắng Mỹ trong cơ chế hợp tác đa phương TPP sẽ không làm Việt Nam từ bỏ các nỗ lực đưa nền kinh tế hội nhập với khu vực cũng như trên thế giới.

    Với chủ trương hướng hội nhập một cách chủ động và tích cực, thông qua các cơ chế hợp tác đa phương và song phương, Việt Nam đẩy mạnh các nỗ lực kết nối với các nền kinh tế khác, tạo thêm các thị trường xuất khẩu tiềm năng cho hàng hóa Việt Nam.

    Bằng việc tích cực cải thiện môi trường kinh doanh, điều chỉnh các cơ chế chính sách để phù hợp với các tiêu chí toàn cầu, Việt Nam đang thực hiện một cách vững chắc quá trình hội nhập kinh tế.

    Các nỗ lực hội nhập của Chính phủ Việt Nam đã gặt hái những thành quả ấn tượng. Các tổ chức xếp hạng uy tín trên thế giới như Fitch, Moody đã nâng triển vọng kinh tế của Việt Nam từ mức “ổn định” lên “tích cực” càng chứng tỏ Việt Nam đang đi đúng hướng trong việc tăng cường hội nhập kinh tế.

    Chủ tịch Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) Hiroyuki Ishige đã nhận định rằng, với tư cách là thành viên của nhiều cơ chế hợp tác đa phương chất lượng như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), TPP, APEC…

    Việt Nam đang trở thành một điểm đến được các nhà đầu tư nước ngoài chú trọng. Trong xu thế này, hợp tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản đang nổi lên là một mối quan hệ liên kết thực chất và hiệu quả, đóng góp lớn cho sự phát triển của nền kinh tế mỗi nước.

    Việt Nam đang trở thành một trong những điểm đến đầu tư quan trọng của Nhật Bản. Tại sự kiện Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam tổ chức tại thủ đô Tokyo, Nhật Bản ngày 5/6, việc hơn 1.500 doanh nghiệp đăng ký tham dự, vượt quá mức dự tính của Ban Tổ chức, cho thấy ngày càng có nhiều doanh nghiệp Nhật Bản quan tâm đến triển vọng đầu tư vào thị trường Việt Nam.

    Có thể nói, sự quan tâm của đông đảo doanh nghiệp Nhật Bản lần này bắt nguồn từ những đánh giá tích cực của các doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam.

    Báo cáo do Chủ tịch JETRO công bố cuối tháng 5/2017 cho biết Việt Nam đã trở thành một trong ba thị trường xuất khẩu quan trọng của Nhật Bản và số lượng các doanh nghiệp mong muốn đầu tư tại Việt Nam tăng trong hai năm liên tiếp.

    Trong bối cảnh nền kinh tế trong thời kỳ giảm phát, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã xác định xuất khẩu là một trong những công cụ quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

    Theo kết quả thăm dò của JETRO, Việt Nam đang được xếp hạng là một trong ba thị trường xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Nhật Bản, chỉ sau hai nền kinh tế lớn trên thế giới là Mỹ và Tây Âu.

    Điều này cho thấy Việt Nam đang đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản.

    Một trong những yếu tố quan trọng khác giúp cho sự hợp tác kinh tế của hai nước ngày càng hiệu quả và thực chất là sự đồng thuận trong chủ trương thúc đẩy hội nhập toàn cầu và sự phối hợp chặt chẽ trong các cơ chế kinh tế đa phương.

    Đặc biệt, trong bối cảnh TPP đang đối mặt với thử thách sau khi Mỹ rút khỏi thỏa thuận này, việc Nhật Bản và Việt Nam nhất trí xúc tiến TPP với 11 thành viên, có thể nói sẽ tạo thêm động lực cho các thành viên còn lại tiếp tục theo đuổi tiến trình này.

    Cả Việt Nam và Nhật Bản đều là những quốc gia chủ trương ủng hộ tự do thương mại và toàn cầu hóa, coi đó là nền tảng để thúc đẩy phát triển kinh tế bình đẳng và bền vững.

    Sự phối hợp giữa Việt Nam, nền kinh tế chủ nhà của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), với Nhật Bản, nền kinh tế lớn trong TPP, được đánh giá sẽ tạo ra cơ sở quan trọng cho các nỗ lực xúc tiến đàm phán lại TPP.

    “Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu,” đó chính là lời khẳng định của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng với nhiều diễn giả hàng đầu khác tại Hội nghị tương lai châu Á lần thứ 23.

    Việt Nam và Nhật Bản, song song với việc tăng cường hợp tác kinh tế trong khuôn khổ song phương, sẽ tiếp tục ủng hộ xu thế hội nhập khu vực cũng như thế giới.

    Đối với Việt Nam và Nhật Bản, các cơ chế hợp tác song phương và đa phương sẽ hỗ trợ lẫn nhau tạo ra những hiệu ứng tích cực, đóng góp cho sự phát triển và thịnh vượng của hai quốc gia cũng như của khu vực và trên thế giới.



    Theo Nguyễn Tuyến


    TTXVN

    Toàn cầu hóa và “mối họa” độc tôn

    Toàn cầu hóa được xác định từ thế kỷ XVI, sau những đợt khám phá hàng hải nối liền Đông – Tây, Âu – Á. Toàn cầu hóa có thể nhìn thấy dưới nhiều lăng kính, nhưng tổng quát lại là các quốc gia, châu lục xích lại gần nhau hơn.

    Hàng trăm tổ chức quốc tế được thành lập, hàng ngàn mối quan hệ song phương được thiết lập, rất nhiều hiệp định, hiệp ước, ghi nhớ được ký kết. Thành tựu lớn nhất trong kinh tế là các FTA, cắt giảm thuế quan, thúc đẩy nhiều cuộc cách mạng công nghiệp.

    Nhà báo nổi tiếng người Mỹ, Thomas Friemand đã viết cuốn “Thế giới phẳng” để mô tả quá trình toàn cầu hóa xóa nhòa mọi khoảng cách.

    Chính nước Mỹ thịnh thượng như ngày nay cũng được sản sinh trong xu thế toàn cầu hóa, nhờ tận dụng tốt ưu thế nên trở thành bá chủ thế giới khoảng 2 thế kỷ nay. Song những gì xảy ra xung quanh sự ảnh hưởng của nước Mỹ làm dấy lên lo ngại toàn cầu hóa bị chững lại.

    Toàn cầu hóa đang bị đe dọa bởi chính sách của các nước lớn

    Toàn cầu hóa đang bị đe dọa bởi chính sách của các nước lớn

    Đầu tiên, cuộc chiến tranh thương mại đang diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc chính là hệ quả của toàn cầu hóa, Washington cáo buộc Bắc Kinh bằng những lý do rất thời đại, là vi phạm sở hữu trí tuệ và làm nước Mỹ thâm hụt thương mại 800 tỷ USD.

    Trong kinh tế, ông Trump còn gây hấn với các nước G7, các nước láng giềng, Liên minh Châu âu, và cả với những đồng minh thân cận. Về quân sự, ông Trump đã hủy bỏ thỏa thuận hạt nhân Iran, tiếp tục cứng rắn tại Trung Đông nhưng tỏ ra mềm dẻo với Triều Tiên!

    Washington rút Mỹ khỏi TPP, dọa rút khỏi WTO và yêu cầu “có đi có lại” trong hợp tác thương mại. “Mỹ là nền kinh tế cởi mở nhất thế giới và gần như vô điều kiện trong nhiều thập kỷ nhưng các nước khác đã không tạo cho Mỹ quyền tiếp cận thị trường tương xứng” – ông Trump phát biểu tại đại Hội đồng LHQ.

    Bên cạnh đó, người đứng đầu Nhà trắng “khoe” đàm phán thương mại tự do (FTA) với Mexico và Hàn Quốc đã đạt được kết quả tốt đẹp. Phải chăng nước Mỹ đang dẫn dắt thế giới bước vào thời kỳ chú trọng quan hệ song phương, từ bỏ đa phương?

    Điều gì xảy ra nếu các mối quan hệ đa phương bị hủy bỏ? Tác động vĩ lớn nhất khiến quá trình toàn cầu hóa bị chững lại, bên chịu thiệt thòi lớn nhất là các nước thứ ba.

    Toàn cầu hóa bằng đa phương hóa các mối quan hệ là xu thế chung được hình thành qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Nó không tuân theo ý muốn hay không muốn của bất cứ quốc gia nào.

    Tuy nhiên, trong kinh tế có thể song phương hóa, nước Mỹ có thể tạo ra mối quan hệ với bất cứ quốc gia nào trên thế giới để tìm kiếm điều họ muốn, song vấn đề lớn nhất là các vấn đề toàn cầu rất khó tìm tiếng nói chung nếu các tổ chức đa phương bị giải thể.

    Ví dụ như biến đổi khí hậu, bênh tật, suy thoái con người… một mình nước Mỹ hoặc một nhóm quốc gia nào đó dù có tiềm lực mạnh đến mấy cũng không thể giải quyết được.

    Hệ quả của con đường song phương hóa đa phương là rất lớn, có bao nhiêu mối quan hệ tức là có bấy nhiêu vấn đề nảy sinh, rất nhiều vấn đề song phương nhưng lại trở thành vấn đề toàn cầu, ví dụ như chiến tranh thương mại hoặc sở hữu trí tuệ.

    Ông Trump nhấn mạnh thành tựu nổi bật là cởi bỏ căng thẳng với Triều Tiên và không quên gửi lời cảm ơn đến nhà lãnh đạo Kim Jong – un. Nhưng có thể thấy đó không phải là thành công trước mắt về phương diện kinh tế. Song phương với Triều Tiên trong trường hợp này chỉ có ý nghĩa đối với chiến lược xoay trục châu Á.

    Nước Mỹ có lý do khi muốn tìm kiếm giải pháp tối ưu hóa thực lực, nhưng song phương hóa có thể làm giảm sút vị thế của nước này, đồng thời vấp phải sự phản đối của đa số quốc gia còn lại muốn tìm kiếm cơ hội qua con đường toàn cầu hóa.

    Ý định của nước Mỹ sẽ được quyết định sau khi chiến tranh thương mại với Trung Quốc kết thúc, người chiến thắng trong cuộc chiến này có quyền định lại luật chơi thương mại toàn cầu.

    Nhưng bất kể chiến tranh thương mại có bị đẩy lùi hay không, thì xu thế toàn cầu hóa vẫn còn bị đe dọa bởi chính sách của một vài nước lớn. Dự án “hạ tầng liên lục địa” thường được biết đến dưới thuật ngữ “Vành đai và Con đường” (BRI)- một sáng kiến do Trung Quốc chủ trì làm nhiều quốc gia lo lắng.

    Hàng trăm tỷ USD đổ vào sáng kiến này thông qua các khoản vay đối với những nước nghèo ở châu Á, châu Phi sẽ là khoản nợ khổng lồ rất khó thanh toán. Điển hình là Sri Lanka đã nhượng quyền sử dụng toàn bộ một sân bay và một cảng biển cho Trung Quốc.

    Đằng sau đó là làn sóng M&A của các doanh nghiệp Trung Quốc “vươn vòi” đến khắp nơi để thâu tóm những doanh nghiệp công nghệ cao của các nước, nhằm góp phần thực hiện chiến lược “Made in China 2025” của Bắc Kinh.

    Diễn biến này có thể làm “méo mó” toàn cầu hóa khi các nước yếu thế không còn cơ hội cạnh tranh sòng phẳng. Thế độc tôn sẽ được tạo ra đằng sau những đồng vốn cho vay dễ dàng.

    Một số nước Liên minh Châu Âu như Đức, Pháp, Anh, Hy Lạp… đã từ chối tham gia sáng kiến BRI của Bắc Kinh vì lo sợ “các chuẩn mực về môi trường, về các tiêu chuẩn xã hội, không bảo đảm tính minh bạch mỗi khi các cơ quan nhà nước gọi thầu”

    Vì vậy, tương lai thế giới ngày càng khó đoán định, liệu chiến tranh thế giới thứ ba sẽ được châm ngòi?


    Trương Khắc Trà

    Tương lai của chuỗi giá trị và thương mại-P1


    Chuỗi giá trị toàn cầu đang được tái định hình bởi sự gia tăng của nhu cầu và năng lực công nghiệp ở các nước đang phát triển cũng như làn sóng công nghệ mới.

    Ngay cả khi những vấn đề căng thẳng thương mại và thuế quan thống trị các trang tin tức, những thay đổi quan trọng về bản chất của toàn cầu hóa lại không nhận được nhiều sự chú ý. Trong bài viết Toàn cầu hóa trong thời kỳ chuyển đổi: Tương lai của chuỗi giá trị và thương mại, Viện nghiên cứu toàn cầu McKinsey đã phân tích động lực của chuỗi giá trị toàn cầu và tìm thấy sự dịch chuyển cấu trúc chỉ đang ẩn mình giữa ban ngày mà thôi.

    Mặc dù giá trị sản lượng và thương mại tiếp tục tăng, nhưng cường độ giao dịch (nghĩa là tỷ lệ sản lượng được giao dịch) thì lại giảm trong hầu hết các chuỗi giá trị sản xuất hàng hóa. Dòng dịch vụ và dữ liệu hiện đóng một vai trò lớn hơn nhiều trong việc gắn kết nền kinh tế toàn cầu lại với nhau. Không chỉ thương mại dịch vụ tăng nhanh hơn thương mại hàng hóa, mà dịch vụ đang tạo ra giá trị vượt xa những gì tài khoản quốc gia đo lường. Sử dụng các biện pháp thay thế, có thể thấy rằng các dịch vụ đã tạo thành giá trị cao hơn trong thương mại toàn cầu so với hàng hóa. Ngoài ra, tất cả các chuỗi giá trị toàn cầu đang trở nên chuyên sâu hơn về kiến thức. Lao động tay nghề thấp không còn quan trọng như là một yếu tố sản xuất. Trái ngược với nhận thức phổ biến, chỉ có khoảng 18% giao dịch hàng hóa toàn cầu hiện nay được thúc đẩy bởi chênh lệch giá lao động.

    Ba yếu tố giải thích cho những thay đổi này: nhu cầu ngày càng tăng ở Trung Quốc và các nước đang phát triển cho phép các quốc gia này tiêu thụ nhiều hơn những gì họ tự sản xuất; sự tăng trưởng của chuỗi cung ứng nội địa toàn diện hơn ở các quốc gia này, điều này đã làm giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu hàng hóa trung gian; và tác động của các công nghệ mới.

    Toàn cầu hóa đang trong thời kỳ chuyển đổi. Tuy nhiên, cuộc tranh luận công khai về thương mại thường là về việc nuối tiếc quá khứ hơn là nhìn về tương lai. Sự kết hợp của các quốc gia, công ty và người lao động sẽ giúp đạt được những kết quả trong giai đoạn chuyển dịch. Hiểu được sự thay đổi đang diễn ra như thế nào sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo doanh nghiệp chuẩn bị tốt hơn cho giai đoạn toàn cầu hóa tiếp theo và những cơ hội và thách thức mới.

    Chuỗi giá trị toàn cầu đang trải qua 5 thay đổi cấu trúc

    Một trong những yếu tố định hình lại chuỗi giá trị toàn cầu là sự thay đổi về nhu cầu ở các thị trường toàn cầu

    Sự gia tăng của chuỗi cung ứng trong nước ở Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi khác cũng làm giảm cường độ thương mại toàn cầu

    Các công nghệ mới đang thay đổi chi phí của các chuỗi giá trị toàn cầu

    Với sự thay đổi trong chuỗi giá trị, các công ty cần đánh giá lại các chiến lược toàn cầu của họ

    Chuỗi giá trị toàn cầu đang trải qua 5 thay đổi cấu trúc

    Những năm 1990 và 2000 đã chứng kiến sự mở rộng của các chuỗi giá trị phức tạp trên toàn cầu. Nhưng mạng lưới sản xuất cũng tiếp tục phát triển. Có 5 thay đổi lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu trong thập kỷ qua.

    1. Chuỗi giá trị sản xuất hàng hóa ít tính thương mại

    Thương mại tăng nhanh trong gần như tất cả các chuỗi giá trị toàn cầu từ năm 1995 đến năm 2007. Gần đây, cường độ thương mại (nghĩa là tỷ lệ xuất khẩu gộp trên tổng sản lượng) trong hầu hết các chuỗi giá trị sản xuất hàng hóa đã giảm. Thương mại vẫn tăng trưởng một cách tuyệt đối, nhưng tỷ lệ sản lượng di chuyển qua biên giới thế gii đã giảm từ 28,1% năm 2007 xuống còn 22,5% trong năm 2017. Tăng trưởng khối lượng giao dịch cũng chậm lại. Từ năm 1990 đến 2007, khối lượng thương mại toàn cầu tăng nhanh hơn 2,1 lần so với GDP thực tế, nhưng chỉ tăng nhanh hơn 1,1 lần so với GDP kể từ 2011.

    Sự suy giảm cường độ thương mại đặc biệt rõ rệt trong các chuỗi giá trị giao dịch cao và phức tạp nhất. Tuy nhiên, xu hướng này không báo hiệu rằng toàn cầu hóa đã kết thúc. Thay vào đó, nó phản ánh sự phát triển của Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi khác, hiện đang tiêu thụ nhiều hơn những gì họ sản xuất.

     width=

    Nguồn: McKinsey and Company

    1. Vai trò của dịch vụ ngày càng tăng nhưng bị đánh giá thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu

    Trong năm 2017, tổng giá trị thương mại dịch vụ đạt 5,1 nghìn tỷ đô la, một con số thấp hơn so với giá trị thương mại hàng hóa toàn cầu 17,3 nghìn tỷ đô la. Nhưng thương mại dịch vụ đã tăng nhanh hơn 60% so với thương mại hàng hóa trong suốt một thập kỷ qua. Một số tiểu ngành, bao gồm dịch vụ viễn thông và CNTT, dịch vụ kinh doanh và phí sở hữu trí tuệ, đang tăng nhanh gấp hai đến ba lần.

     width=

    Nguồn: McKinsey and Company

    Tuy nhiên, vai trò đầy đủ của các dịch vụ lại đang bị che khuất trong thống kê thương mại truyền thống. Đầu tiên, các dịch vụ tạo ra khoảng một phần ba giá trị trở thành hàng hóa sản xuất được giao dịch. R&D, kỹ thuật, bán hàng và tiếp thị, tài chính và nhân lực đều giúp ích trong quá trình hàng hóa đi vào thị trường. Ngoài ra, các dịch vụ nhập khẩu đang thay thế cho các dịch vụ trong nước trong gần như tất cả các chuỗi giá trị. Trong tương lai, sự khác biệt giữa hàng hóa và dịch vụ sẽ tiếp tục mờ đi khi các nhà sản xuất ngày càng giới thiệu các loại hình cho thuê, đăng ký mới và các loại hình khác như một mô hình kinh doanh “dịch vụ”.

    Thứ hai, tài sản vô hình mà các công ty đa quốc gia gửi cho các chi nhánh của họ trên toàn thế giới, bao gồm phần mềm, nhãn hiệu, thiết kế, quy trình vận hành và tài sản trí tuệ khác được phát triển tại trụ sở chính, đại diện cho giá trị to lớn, nhưng chúng thường không được coi trọng và không bị theo dõi trừ khi bị tính phí tài sản trí tuệ. Thời kỳ R&D đi vào phát triển dược phẩm và điện thoại thông minh, ví dụ, trong khi thiết kế và xây dựng thương hiệu cho phép các công ty như Nike và Adidas tính phí bảo hiểm cho các sản phẩm của họ. 

    Cuối cùng, số liệu thống kê thương mại không theo dõi dòng dịch vụ kỹ thuật số miễn phí tăng vọt, bao gồm email, lập bản đồ thời gian thực, video conference, và phương tiện truyền thông xã hội. Wikipedia, ví dụ, bao gồm 40 triệu bài viết miễn phí cho khoảng 300 ngôn ngữ. Mỗi ngày, người dùng trên toàn thế giới xem miễn phí hơn một tỷ giờ nội dung video YouTube và hàng tỷ người sử dụng Facebook và WeChat mỗi tháng. Những dịch vụ này chắc chắn tạo ra giá trị cho người dùng, ngay cả khi không có giá tiền.

    Theo ước tính, ba kênh này cùng nhau tạo ra tới 8.3 nghìn tỷ đô la giá trị hàng năm, một con số sẽ làm tăng lưu lượng thương mại tổng thể lên tới 4 nghìn tỷ đô la (tương đương 20%) và phân bổ lại 4.3 nghìn tỷ đô la hiện đang được tính là một phần của dòng hàng hóa vào dịch vụ. Nếu nhìn theo cách này, thương mại dịch vụ đã có giá trị hơn so với thương mại hàng hóa. Viễn cảnh này sẽ thay đổi đáng kể cán cân thương mại của một số quốc gia, đặc biệt là Hoa Kỳ. Góc nhìn này không nhằm mục đích tranh luận về việc xác định lại số liệu thống kê thương mại quốc gia. Nó chỉ đơn giản nhấn mạnh vai trò của dịch vụ đang bị đánh giá thấp, điều này sẽ ngày càng quan trọng đối với cách các công ty và quốc gia tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và thương mại trong tương lai.

    1. Thương mại dựa trên chênh lệch giá lao động đang giảm trong một số chuỗi giá trị

    Khi các chuỗi giá trị toàn cầu mở rộng vào những năm 1990 và đầu những năm 2000, nhiều quyết định về nơi sản xuất dựa trên chi phí lao động, đặc biệt là trong các ngành sản xuất hàng hóa và dịch vụ thâm dụng lao động. Tuy nhiên, trái với nhận thức phổ biến, ngày nay chỉ có 18% giao dịch hàng hóa dựa trên chênh lệch giá lao động (được định nghĩa là xuất khẩu từ các quốc gia có GDP bình quân đầu người bằng 1/5 hoặc thấp hơn so với nước nhập khẩu). Nói cách khác, hơn 80 phần trăm thương mại hàng hóa toàn cầu ngày nay không phải từ một quốc gia có mức lương thấp đến một quốc gia có mức lương cao. Cần cân nhắc các yếu tố khác bên cạnh yếu tố tiền lương thấp để đưa ra quyết định về cơ sở sản xuất, chẳng hạn như tiếp cận lao động lành nghề hoặc tài nguyên thiên nhiên, sự gần gũi với người tiêu dùng và chất lượng cơ sở hạ tầng.

    Hơn nữa, tỷ trọng thương mại dựa trên chênh lệch giá lao động đã giảm trong một số chuỗi giá trị, đặc biệt là sản xuất hàng hóa thâm dụng lao động (có nơi đã giảm từ 55% năm 2005 xuống 43% vào năm 2017). Điều này chủ yếu phản ánh mức tăng lương ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, trong tương lai, tự động hóa và AI có thể khuếch đại xu hướng này, biến sản xuất thâm dụng lao động thành sản xuất thâm dụng vốn. Sự thay đổi này sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với việc các nước thu nhập thấp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

    1. Chuỗi giá trị toàn cầu đang phát triển theo hướng kiến thức chuyên sâu

    Trong tất cả các chuỗi giá trị, chi tiêu vốn cho R&D và các tài sản vô hình như thương hiệu, phần mềm và sở hữu trí tuệ (IP) đang tăng lên như một phần doanh thu. Nhìn chung, nó đã tăng từ 5.4 phần trăm doanh thu năm 2000 lên 13.1 phần trăm trong năm 2016. Xu hướng này là rõ ràng nhất trong chuỗi giá trị đổi mới toàn cầu. Các công ty về máy móc và thiết bị dành 36% doanh thu cho R&D và tài sản vô hình, trong khi các công ty dược phẩm và thiết bị y tế trung bình dành 80%. Sự phát triển theo hướng kiến thức chuyên sâu và tài sản vô hình đã ủng hộ các quốc gia có lực lượng lao động lành nghề, khả năng đổi mới và R&D mạnh mẽ cũng như bảo vệ sở hữu trí tuệ.

     width=

    Nguồn: McKinsey and Company

    Trong nhiều chuỗi giá trị, việc tạo ra giá trị đang chuyển sang các hoạt động ngược dòng, chẳng hạn như R&D và thiết kế, đến các hoạt động hạ nguồn, như phân phối, tiếp thị và dịch vụ hậu mãi. Tỷ trọng giá trị được tạo ra bởi sản xuất hàng hóa thực tế đang giảm (một phần vì sự bù đắp đã làm giảm giá của nhiều hàng hóa). Xu hướng này được phát triển từ ngành dược phẩm và điện tử tiêu dùng, đã chứng kiến ​​sự gia tăng của các “công ty sản xuất ảo” tập trung vào phát triển hàng hóa và gia công sản xuất thực tế cho các nhà sản xuất theo hợp đồng.

    1. Chuỗi giá trị ngày càng mang tính khu vực hóa

    Cho đến gần đây, thương mại đường biển đã trở nên phổ biến hơn khi chi phí vận chuyển và liên lạc giảm và các chuỗi giá trị toàn cầu mở rộng sang Trung Quốc và các nước đang phát triển khác. Tỷ lệ thương mại hàng hóa giữa các quốc gia trong cùng khu vực (trái ngược với thương mại giữa người mua và người bán ở khác khu vực) đã giảm từ 51% năm 2000 xuống còn 45% vào năm 2012.

    Xu hướng đó đã bắt đầu đảo ngược trong những năm gần đây. Thị phần nội địa của thương mại hàng hóa toàn cầu đã tăng 2.7 điểm phần trăm kể từ năm 2013, một phần phản ánh sự gia tăng của tiêu dùng trong thị trường mới nổi. Sự phát triển này là đáng chú ý nhất đối với châu Á và các nước EU-28. Khu vực hóa được thể hiện rõ ràng nhất trong chuỗi giá trị đổi mới toàn cầu, do nhu cầu tích hợp chặt chẽ nhiều nhà cung cấp theo trình tự hợp lý về mặt thời gian. Xu hướng này cũng có thể tăng tốc trong các chuỗi giá trị khác, vì tự động hóa làm giảm tầm quan trọng của chi phí lao động và tăng tầm quan trọng của tốc độ đối với thị trường trong các quyết định của công ty về nơi sản xuất hàng hóa.

    Còn tiếp…

    Thu Thuỷ

    Lược dịch theo McKinsey and Company

    Khảo sát quốc tế: toàn cầu hóa vẫn được coi là quá trình mang lại tác động tích cực trên thế giới

    Khảo sát quốc tế: toàn cầu hóa vẫn được coi là quá trình mang lại tác động tích cực trên thế giới

    Ở 18 trên 19 nước tham gia khảo sát trên toàn thế giới, số người cho rằng toàn cầu hóa mang lại tác động tích cực cao hơn số người nhìn nhận tác động tiêu cực của quá trình này trên thế giới 

    Gần đây quá trình toàn cầu hóa bị báo chí phương Tây chỉ trích mạnh mẽ do chính phủ các nước không thể ngăn chặn tình trạng người dân bị bỏ lại đằng sau. Đây được coi là nguồn gốc của nhiều bất ổn chính trị gần đây, đặc biệt là sự đắc cử của Donald Trump.

    Tuy nhiên, một cuộc khảo sát mới do YouGov tổ chức với hơn 20.000 người tại 19 nước tham gia cho thấy ở hầu hết các quốc gia này người dân vẫn có xu hướng cho rằng toàn cầu hóa đã mang lại các tác động tích cực hơn là các tác động tiêu cực. Và sự chênh lệch giữa hai ý kiến này là rất lớn.

    Người dân thuộc các nước Đông Nam Á là những đối tượng ủng hộ ý kiến này nhiệt tình nhất. Ở các nước này, ý kiến cho rằng toàn cầu hóa mang lại tác động tích cực đạt mức tối thiểu là 70% và cao nhất là 91% tại Việt Nam.

    Tại châu Âu ý kiến ủng hộ vẫn chiếm đa số (trừ Pháp – thông tin cụ thể sẽ được cung cấp ở phần sau) với khoảng từ một phần hai số người tại những nước tham gia khảo sát trở lên nói rằng toàn cầu hóa mang lại tác động tích cực.

    Tuy nhiên, đa số thừa nhận rằng toàn cầu hóa chủ yếu mang lại lợi ích cho người giàu. Ở 16 trên 19 nước khảo sát, số người đồng ý rằng toàn cầu hóa mang lại nhiều lợi ích cho người giàu hơn người dân thường cao hơn số người phản đối ý kiến này.

    Tìm hiểu các vấn đề chi tiết

    Mặc dù người dân trên toàn thế giới có thể khá có cảm tình với khái niệm toàn cầu hóa nhưng khi đi sâu vào các yếu tố cụ thể của vấn đề này, kết quả thu được phức tạp hơn nhiều.

    Hãy cùng lấy sự phụ thuộc lẫn nhau làm ví dụ. Trong một thế giới được kết nối, việc sản xuất các sản phẩm hàng ngày trở nên phức tạp đến mức các dây chuyền cung ứng tham gia vào việc chế tạo diễn ra trên toàn cầu và điều không thể tránh khỏi là các nước phải trao đổi thương mại với nhau để có thể đáp ứng các nhu cầu của mình. Tuy nhiên, 78% người Indonesia nghĩ rằng nước họ nên phát triển khả năng tự đáp ứng nhu cầu của mình mà không phải phụ thuộc vào việc nhập khẩu từ các nước khác. 59% người Thái Lan, 53% người Philippin và 52% người Malaysia đồng tình với ý kiến này.

    Các câu hỏi về vấn đề nhập cư cũng nhận được những câu trả lời hết sức khác nhau, ngay cả ở những nước láng giềng. Tại Philippin, 45% người tham gia khảo sát tin rằng người nhập cư mang lại tác động tích cực cho nước họ và chỉ 6% cho rằng những người nhập cư mang lại tác động tiêu cực. Tại quốc gia láng giềng Malaysia, chỉ 16% có cái nhìn tích cực về người nhập cư và 39% có quan điểm tiêu cực, trong khi ở Indonesia đúng 73% cho rằng họ không mang lại tác động tích cực hoặc tiêu cực.

    Người dân khu vực Châu Á Thái Bình Dương có thái độ cởi mở đối với các cơ hội kinh doanh nhưng không cảm thấy lạc quan

    Người dân của nhiều quốc gia thuộc khu vực Châu Á Thái Bình Dương thừa nhận các cơ hội kinh tế do toàn cầu hóa mang lại với đa số người tham gia khảo sát (64%) hoan nghênh các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Úc là nước duy nhất có số người ủng hộ ở mức thấp với 37% số người tham gia khảo sát nói rằng họ chấp nhận cho các nhà đầu tư nước ngoài mua công ty của nước họ.

    Mặc dù có thái độ cởi mở đối với cơ hội kinh doanh nhưng những người tham gia khảo sát ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương không cảm thấy lạc quan về tiến trình toàn cầu hóa hiện đang diễn ra. Trên một phần hai số người tham gia khảo sát thuộc khu vực Châu Á Thái Bình Dương (51%) tin rằng tình hình thế giới đã trở nên xấu đi trong 12 tháng qua và chỉ gần một phần năm (18%) tin rằng tình hình đã trở nên tốt đẹp hơn. Người Philippin và Indonesia có thái độ lạc quan nhất với 39% và 31% (tương ứng) tin rằng tình hình thế giới đã trở nên xấu đi trong năm qua. Người Malaysia và Hồng Kông có thái độ bi quan nhất trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương với 68% và 63% (tương ứng) tin rằng tình hình thế giới đã trở nên xấu đi trong năm qua.

    Arrêter le monde

    Kết quả nổi bật nhất của cuộc khảo sát này là mức độ vỡ mộng của người Pháp đối với quá trình toàn cầu hóa. Người Pháp thể hiện những cảm xúc tiêu cực nhất đối với toàn cầu hóa trong sáu trên tổng số 11 câu hỏi của cuộc khảo sát (tính theo các điều kiện thực tế). Người Pháp có kết quả khảo sát ở mức gần thấp nhất đối với một số câu hỏi khác.

    Sự vỡ mộng này còn được thể hiện trong quan điểm của họ về đất nước mình – có đến 21% số người Pháp được hỏi nghĩ rằng nước Pháp kém hơn hầu hết các nước khác. Đây là con số có thể so sánh với các nước đang phát triển trong cuộc khảo sát hơn là các nước phát triển. Con số 4% người Pháp nghĩ rằng Pháp là nước kém nhất trên thế giới là tỷ lệ cao nhất trong cuộc khảo sát (cùng với Việt Nam) – người Pháp cũng ít có khả năng cho rằng họ đang sống ở quốc gia tốt nhất trên thế giới.

    Đây là tin rất xấu cho những ai lo sợ phe cực hữu sẽ chiến thắng trong cuộc bầu cử nghị viện và bầu cử tổng thống sắp tới, nhất là khi các kết quả này đi kèm với kết quả của một nghiên cứu mới ở quy mô lớn được YouGov thực hiện cho thấy 63% cử tri Pháp có quan điểm ủng hộ “chủ nghĩa dân túy độc đoán”.

    Hy vọng còn lại được đặt vào giới trẻ

    Có thể đã quá muộn để thay đổi lịch sử nước Pháp trong thời gian ngắn nhưng những nhà toàn cầu hóa vẫn còn le lói hy vọng trong tương lai lâu dài. Trong tổng số 37% người Pháp nói rằng toàn cầu hóa mang lại tác động tích cực thì có đến 77% là người trong độ tuổi từ 18 đến 24. Giới trẻ có quan điểm về toàn cầu hóa tích cực hơn so với các nhóm cao tuổi. Đây là xu hướng chung trên toàn thế giới.

    Rõ ràng câu hỏi được đặt ra là liệu những thanh niên này có giữ vững quan điểm của họ theo thời gian không hay họ sẽ thay đổi khi trở nên nhiều tuổi hơn. Nếu kết quả là các giá trị của toàn cầu hóa đã được ghi dấu vững chắc ở thế hệ trẻ thì làn sóng phản đối toàn cầu hóa chỉ là chút xáo động trong hành trình đi lên của lịch sử.

    Toàn cầu hóa, cơ hội và thách thức đối với ngành Thông tin – Thư viện Việt Nam

    1. Toàn cầu hoá

    Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về toàn cầu hoá, trong đó có một định nghĩa mà chúng tôi cho rằng phản ánh khá chính xác bản chất của toàn cầu hóa, đó là “Toàn cầu hóa là một quá trình biến các vùng miền, các cộng đồng người khác nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái khác về chất, bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu cơ trên quy mô toàn cầu. Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng, một vấn đề xảy ra ở vùng miền này, ở cộng đồng người này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới các vùng miền, các cộng đồng người khác trên quy mô toàn thế giới” [1, tr. 11].

    Toàn cầu hoá đang tạo ra những ưu thế nhất định và có thể tóm tắt ưu thế đó trên mấy điểm như sau: thứ nhất, nó tạo ra khả năng phát triển, phổ cập công nghệ thông tin và các phương tiện viễn thông; thứ hai, nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương mại và tạo ra khả năng thực thi các luật lệ kinh tế khách quan trong một không gian toàn cầu rộng lớn; thứ ba, nó tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hoá  và tư tưởng rộng rãi, làm cho con người xích lại gần nhau hơn; cuối cùng, toàn cầu hoá đem lại khả năng giải quyết một số vấn đề chung đang đối mặt với toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển xã hội.

    Bên cạnh những ưu điểm, toàn cầu hoá đang đặt ra cho các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển những thách thức và nguy cơ hết sức to lớn:

    Về mặt xã hội, hiện nay, các nước đều đang phải đối mặt với những vấn đề chung trong sự phát triển kinh tế quốc gia, như những vấn đề sinh thái, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, vấn đề dân số và sức khoẻ cộng đồng, sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế.

    Về mặt chính trị, người ta thường nhắc tới những thách thức nghiêm trọng của toàn cầu hoá đối với chủ quyền quốc gia. Điều đó được lý giải bằng sự tác động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội nhập về chính trị. Với lôgíc đó, người ta nói đến sự suy yếu của mô hình quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, người ta thường nói về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập đến sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, không có và không thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoá.

    2. Tác động của toàn cầu hoá đến Việt Nam

    Trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học, lãnh đạo Việt Nam đã nghiên cứu và chỉ ra những tác động của toàn cầu hoá đối với kinh tế, xã hội,  chính trị và văn hoá của Việt Nam.

    Tác động về kinh tế

    Không ai có thể phủ nhận được rằng toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu và đang tạo ra những cơ hội cho các nước có nền kinh tế đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế thế giới để trên cơ sở đó, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và đổi mới công nghệ.

    Việt Nam từ khi mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có nhiều công ty nước ngoài vào đầu tư, thương mại phát triển xuyên biên giới,…. Đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như BTA, AFTA, WTO… Đây là cơ hội mà để ngành kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có điều kiện phát triển và có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

    Tuy nhiên, toàn cầu hoá đã làm cho sự phân hoá giàu nghèo cũng như sự chênh lệch về thu nhập, mức sống ngày càng tăng. Sự chênh lệch đó diễn ra ở mọi phương diện, ở từng địa phương, trong từng doanh nghiệp,…

    Tác động về xã hội

    Toàn cầu hoá đã mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam giao lưu với các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao. Tuy nhiên, Việt Nam cũng giống như nhiều nước khác trên thế giới đang đứng trước những hiểm hoạ của thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường,… Đặc biệt toàn cầu hoá kinh tế cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường của đất nước đã làm nảy sinh tư tưởng thực dụng ở không ít người. Những tác động đó cùng với một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước.

    Tác động về văn hoá

    Sự giao lưu quốc tế rộng rãi trên cơ sở của phát triển kinh tế toàn cầu cũng có những tác động không nhỏ tới lĩnh vực văn hóa. Cùng với việc phục hồi, phát huy các giá trị văn hoá; nền văn hoá Việt Nam có điều kiện tiếp thu các giá trị mới của nền văn hoá thế giới và ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, cùng với những tác động tích cực, toàn cầu hoá cũng gây ra những hệ quả tiêu cực đối với nền văn hoá Việt Nam như: một số giá trị văn hoá truyền thống không được bảo tồn, gìn giữ; một số người thay đổi nhanh chóng lối sống, tha hoá đạo đức,…

    Nhìn chung, sự tác động của toàn cầu hoá đối với xã hội Việt Nam là mạnh mẽ và sẽ còn tiếp tục tăng thêm trong những năm tới. Điều quan trọng là chúng ta phải biết khai thác, tận dụng những mặt tích cực của toàn cầu hoá để tạo ra sức mạnh chiến thắng các tác động tiêu cực của nó.

    3. Toàn cầu hoá, cơ hội và thách thức cho ngành thông tin, thư viện Việt Nam

    Toàn cầu hoá tác động đến từng con người, mọi lĩnh vực trong đó có cả ngành thông tin thư viện. Cũng như các lĩnh vực khác, toàn cầu hoá đã mang lại cơ hội cho những người làm công tác thông tin thư viện. Họ có điều kiện để giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến. Trong xu thế hội nhập, các chuẩn liên quan đến xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin được phổ biến và áp dụng rộng rãi. Đặc biệt là việc thu hẹp dần khoảng cách về trình độ công nghệ thông tin giữa các nước trên thế giới đã giúp cho ngành Thông tin thư viện Việt Nam có được những bước tiến dài trong tiến trình tự động hoá của ngành. Với sự trợ giúp của máy tính, mạng thông tin và các phần mềm hiện đại, nhiều thư viện điện tử ra đời, giúp cho việc phục vụ người dùng tin nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Thông qua mạng Internet, nhiều cơ sở dữ liệu được kết nối, việc chia sẻ và trao đổi dữ liệu giữa các thư viện trên thế giới trở nên dễ dàng.

    Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng mang lại cho ngành thông tin thư viện Việt Nam nhiều thách thức.

    Trước đây, với thư viện truyền thống, các hoạt động nghiệp vụ của  thư viện từ trung ương đến địa phương đều có một số công đoạn giống nhau như xử lý tài liệu theo phương pháp thủ công, tổ chức mục lục, phục vụ bạn đọc,… Ngày nay, như người ta đã nói, không có và không thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoá. Bởi vậy, trong xu thế hội nhập, để tránh lạc hậu, các cơ quan thông tin thư viện Việt Nam đã nhanh chóng tiếp thu và triển khai các công nghệ, kỹ thuật và các chuẩn nghiệp vụ mới mà các chuyên gia của các nước phát triển đã nghiên cứu và phổ biến. Chính điều này đã làm cho ngành thông tin thư viện Việt Nam hoà nhập theo sự phát triển của ngành trên thế giới. Song cơ hội mà toàn cầu hóa mang lại cho các thư viện và cơ quan thông tin không đồng đều như nhau. Cơ quan nào có quan hệ hợp tác tốt và nhiều dự án thì sẽ có những bước tiến rất nhanh trong việc phát triển công nghệ thông tin, xây dựng nguồn lực, đào tạo cán bộ,… Chính vì vậy mà nó cũng tạo ra sự chênh lệch khá xa về trình độ cán bộ cũng như hạ tầng cơ sở thông tin giữa các cơ quan thông tin, thư viện lớn và thư viện thành phố với các thư viện nhỏ và thư viện ở vùng sâu vùng xa. Trong khi nhiều thư viện đã xây dựng thư viện điện tử, với các nguồn tin điện tử phong phú, tạo nhiều sản phẩm và dịch vụ thông tin có chất lượng cao, thì vẫn còn nhiều thư viện chưa sử dụng máy tính cũng như chưa hề biết đến biên mục hiện đại hoặc các phần mềm thư viện,…

    Trong xu thế toàn cầu hoá, thư viện Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng  nhiều của thư viện nước ngoài, đặc biệt là thư viện lớn ở các nước tư bản. Nhiều thư viện Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập, cùng nhau chia sẻ và trao đổi tài nguyên thông tin,… Tuy nhiên, cũng có nhiều thư viện, đặc biệt là thư viện vừa và nhỏ của Việt Nam thực sự lúng túng trong vấn đề định hướng phát triển, trước sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ mới, phần mềm thư viện, các chuẩn xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin – là cơ sở tạo nên sự phát triển của một thư viện hiện đại. Họ không muốn tụt hậu trong xu thế hội nhập, nhưng xét về mặt nhân lực, tài lực, vật lực họ đều đang rất yếu, chưa đủ điều kiện để phát triển đồng bộ thành một thư viện hiện đại.

    Toàn cầu hoá mang lại cho các thư viện Việt Nam nhiều thay đổi trong đó có những điều phải chấp nhận theo xu hướng hội nhập. Ví dụ có những chuẩn nghiệp vụ đã được sử dụng thống nhất và có hiệu quả trong cả hệ thống thư viện Việt Nam qua rất nhiều thập kỷ, thì nay đang được thay thế bằng các chuẩn khác, không phải là chuẩn hơn mà vì nó phổ biến hơn khi có nhiều thư viện đang chấp nhận sử dụng. Như Quy tắc mô tả theo tiêu chuẩn Quốc tế (ISBD) đang được thay thế bằng Quy tắc biên mục Anh-Mỹ (AACR2); Khung phân loại BBK đang nhường chỗ cho Khung phân loại DDC;…. Đây cũng là một trong những tác động lớn của toàn cầu hoá đối với ngành Thông tin thư viện Việt Nam. Nó làm cho nhiều cán bộ thư viện, đặc biệt là các cán bộ lâu năm trong nghề thực sự băn khoăn khi phải từ bỏ các chuẩn nghiệp vụ mà mình đã dày công học hỏi để đi theo những cái khác. Điều này cũng xuất phát từ thực tế khi vấn đề sử dụng chung tài nguyên thông tin, chia sẻ và trao đổi dữ liệu, xây dựng mục lục trực tuyến,… đang là xu hướng chung của các thư viện và cơ quan thông tin trong nước cũng như trên thế giới. Chúng ta trao đổi biểu ghi, đổ chung dữ liệu vào mục lục liên hợp, truy cập liên cơ sở dữ liệu, download biểu ghi mà khổ mẫu không đồng nhất, không cùng một khung phân loại, quy tắc mô tả khác nhau thì hiệu quả sẽ bị hạn chế rất nhiều.

    Cũng như nhiều lĩnh vực khác, trong xu thế hội nhập, ngành thông tin thư viện Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Toàn cầu hoá đem lại cho chúng ta khả năng giải quyết một số vấn đề chung mang tính nghiệp vụ trong cả hệ thống mà từ trước tới nay chưa có điều kiện để thống nhất như khổ mẫu trao đổi, quy tắc mô tả, khung phân loại,… Tuy nhiên, toàn cầu hoá luôn có hai mặt của nó, chúng ta không nên chấp nhận một cách quá dễ dàng các vấn đề toàn cầu hoá mang lại, mà phải nghiên cứu để khai thác và tận dụng những mặt tích cực của nó. Các thư viện và cơ quan thông tin nên xem xét và cân nhắc kỹ trong việc lựa chọn một hướng đi cho thư viện mình sao cho phù hợp với khả năng và hoạt động có hiệu quả, tránh những sự thay đổi không cần thiết gây tốn kém sức người và tiền của.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO:

    1. Bùi Thanh Quất. Toàn cầu hóa – một cách tiếp cận mới//Tạp chí Cộng sản, 2003. – Số 27. – tr.11-14.
    2. Lê Văn Viết. Toàn cầu hoá văn hoá và đối sách của chúng ta: Khoá luận tốt nghiệp lớp chính trị cao cấp. H., 2004. – 82 tr.
    3. Phạm Văn Đức. Nghiên cứu và giảng dạy triết học ở Việt Nam: Những nhiệm vụ trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay//Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. http://www.dangcongsan.vn
    4. Toàn cầu hoá dưới những góc nhìn khác nhau: Tiếng nói bè bạn. H.: Chính trị Quốc gia, 2005. – 190 tr.
    5. Tác động của toàn cầu hoá đến Việt Nam//Tạp chí Cộng sản. – http://www.ycsg.yale.edu

    ___________

    Th.s Nguyễn Thị Đào: Trung tâm TTKH&CNQG

    (Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam)


    Đọc thêm cùng chuyên mục:


    Kế toán tổng hợp là gì? Những kiến thức cơ bản cho người mới vào nghề

    Trang chủ » Tài liệu » Tài liệu Kế toán » Kế toán tổng hợp là gì? Những kiến thức cơ bản cho người mới vào nghề

    Trong bất kỳ doanh nghiệp nào thì luôn cần có người đảm nhiệm vị trí kế toán tổng hợp để bao quát toàn bộ dữ liệu kế toán – tài chính, có thể nói đây là bộ phận rất quan trọng. Với những ai mới vào nghề kế toán và chưa nắm rõ kế toán tổng hợp là gì thì hãy tìm hiểu ngay trong bài viết sau để có thể làm tốt vai trò của mình nhé.

    Kế toán tổng hợp và những công việc cần làm

    1. Khái niệm kế toán tổng hợp là gì?  

    Kế toán tổng hợp là người chịu trách nhiệm ghi chép, phản ánh và thống kê một cách tổng quát các số liệu, dữ liệu trên các tài khoản, sổ sách kế toán và báo cáo tài chính theo các chỉ tiêu giá trị của doanh nghiệp.

    Hay nói cách khác, kế toán tổng hợp là bộ phận chịu trách nhiệm chung về số liệu chi tiết đến tổng hợp trên sổ kế toán, nên có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết chính xác các vấn đề tài chính của doanh nghiệp.

    2. Kế toán tổng hợp làm những công việc gì?

    Đối với mỗi người làm kế toán tổng hợp, công việc đòi hỏi sự bao quát thông suốt từ lúc thu thập, xử lý dữ liệu trên các chứng từ kế toán hàng ngày đến việc lên báo cáo tài chính và báo cáo thuế hàng tháng, quý, năm. 

    Kế toán tổng hợp có vai trò rất quan trọng trong bất kỳ doanh nghiệp nào

    Kế toán tổng hợp có vai trò rất quan trọng trong bất kỳ doanh nghiệp nào

    Do vậy, ta có thể liệt kê ra các công việc một kế toán tổng hợp cần làm như sau:

    Công việc hàng ngày: 

    • Thu thập, lưu trữ, xử lý các dữ liệu kế toán trên các chứng từ kế toán phát sinh. Các hóa đơn, chứng từ cần được kiểm tra xem có hợp lệ để đưa vào sổ sách kế toán hay không. 
    • Lập các phiếu thu, chi, xuất hàng, nhập kho, hóa đơn bán hàng,… tại các thời điểm phát sinh nghiệp vụ, tránh chậm trễ dẫn đến việc thiếu sót trong khâu khớp quỹ hay kiểm kê hàng hóa tồn kho hàng ngày,….
    • Vào dữ liệu sổ quỹ, sổ tiền gửi và các sổ liên quan khác.

    Công việc hàng tháng:

    • Theo dõi công nợ với khách hàng, nhà cung cấp.
    • Hóa đơn đầu ra phát sinh tháng nào cần kê luôn vào tháng đó.
    • Lập các tờ khai thuế GTGT, TNCN, TNDN, báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn và các loại thuế khác (nếu doanh nghiệp phải nộp báo cáo theo tháng). 
    • Lập bảng tính lương, bảng lương làm thêm giờ, bảo hiểm, các khoản lương thưởng, phụ cấp khác để chi trả cho người lao động.
    • Tính lại trị giá hàng tồn kho, giá vốn hàng bán, khấu hao tài sản cố định, phân bổ công cụ dụng cụ,…

    Công việc hàng quý:

    • Rà soát lại các hóa đơn, chứng từ ghi nhận trên sổ sách kế toán để lên tờ khai GTGT hàng quý, tạm tính thuế TNCN và TNDN.
    • Lập báo cáo tài chính hàng quý, báo cáo quản trị theo yêu cầu của Ban lãnh đạo.

    Công việc hàng năm:

    • Kê khai, nộp thuế môn bài đầu năm (cần chú ý hạn kê khai và nộp thuế là ngày 31/1, đối với doanh nghiệp mới thành lập kể từ khi có giấy phép đăng ký kinh doanh cần nộp thuế môn bài trong vòng 30 ngày).
    • Nộp tờ khai thuế GTGT, TNCN (tháng 12 hoặc quý IV) và tạm tính thuế TNDN (quý IV) năm trước liền kề.
    • Nộp báo cáo tài chính, tờ khai thuế TNDN, TNCN của năm trước liền kề và hạn nộp 90 ngày kể từ ngày kết thúc kỳ báo cáo.
    • Kết chuyển lợi nhuận chưa phân phối năm trước
    • Kiểm tra lại chứng từ, hóa đơn, hạch toán hết các hóa đơn GTGT còn bỏ sót, không nên để hóa đơn sang năm sau mới hạch toán vì nó sẽ ảnh hưởng đến thuế TNDN phải nộp trong kỳ.
    • Kiểm kê, đối chiếu sổ quỹ và quỹ tồn thực tế, kiểm kê kho hàng và tài sản, đối chiếu công nợ với khách hàng, nhà cung cấp.
    • Đối chiếu giữa sổ chi tiết và sổ tổng hợp.
    • Lập báo cáo tài chính năm gồm: Bảng cân đối kế toán (hay Báo cáo tình hình tài chính), Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ (phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp), Thuyết minh Báo cáo Tài chính, Bảng Cân đối số phát sinh tài khoản.

    Ngoài các công việc mang tính thời điểm như trên, kế toán tổng hợp còn là người phải phối hợp với kế toán trưởng và các kế toán viên để:

    • Phân bổ và giám sát quá trình làm việc của các kế toán viên.
    • Tham gia phối hợp công tác kiểm tra tại các phòng ban, đơn vị cơ sở.
    • Đề ra phương hướng xử lý các tồn đọng, sai sót của doanh nghiệp trong lĩnh vực kế toán, tài chính.
    • Kiểm tra và lưu trữ chứng từ, hồ sơ, sổ sách kế toán trong thời hạn quy định.
    • Phân tích các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính và tham gia trong việc giải trình, quyết toán thuế tại đơn vị.
    • Biết điều chỉnh các nghiệp vụ sau khi cơ quan thuế quyết toán yêu cầu doanh nghiệp nộp phạt thuế.
    • Có khả năng thiết lập và duy trì mối quan hệ với bên ngoài như Cục thuế, ngân hàng, khách hàng, nhà cung cấp,…

    3. Yêu cầu về kỹ năng kế toán tổng hợp là gì?

    Kế toán tổng hợp cần có có kiến thức chuyên sâu 

    Đối với một kế toán tổng hợp, những kỹ năng nghiệp vụ cần thiết bao gồm:

    • Kiến thức chuyên môn: Đây là kỹ năng tiên quyết và quan trọng nhất đối với không chỉ nghề kế toán mà tất cả các ngành nghề khác, nó là điều kiện để bắt đầu công việc cũng như quá trình thăng tiến của bản thân.
    • Kiến thức về tin học: Một kế toán tổng hợp cần thành thạo các phần mềm tin học văn phòng cơ bản như Word, Excel, Powerpoint,… và song song với đó là các phần mềm kế toán chuyên dụng (misa, fast, bravo, sap,…)
    • Kiến thức về ngoại ngữ: Trong thời đại số 4.0 và toàn cầu hóa ngày càng phát triển như hiện nay, việc hiểu biết về ngoại ngữ là điều quan trọng trong quá trình phát triển sự nghiệp của mỗi người.
    • Tính cách cẩn thận, tỉ mỉ: Nghề kế toán là nghề đối mặt với số liệu rất nhiều, vì vậy phải cần sự tỉ mỉ và chính xác rất cao.
    • Khả năng tư duy và chịu được áp lực tốt.
    • Khả năng giao tiếp và đối nội, đối ngoại: Nghề kế toán không đòi hỏi quá cao về khả năng giao tiếp tuy nhiên bạn vẫn cần tạo ra những mối quan hệ nhất định như các mối quan hệ với đồng nghiệp, cấp trên hay với cục thuế, cơ quan bảo hiểm, ngân hàng, nhà cung cấp và khách hàng,…

    4. Yêu cầu về trình độ vị trí kế toán tổng hợp

    Để lên được vị trí kế toán tổng hợp, yêu cầu về trình độ của bạn sẽ khắt khe và khó khăn hơn khi bạn chỉ làm kế toán tại một lĩnh vực nào đó, cụ thể:

    • Trình độ của một kế toán tổng hợp đòi hỏi bạn phải nắm vững tất cả các nghiệp vụ, có khả năng tổng hợp và nắm rõ chế độ kế toán, có cái nhìn bao quát về năng lực tài chính kế toán trong công ty. 
    • Có kỹ năng trong việc tổ chức, sắp xếp và xây dựng kế hoạch để thực hiện cũng như hướng dẫn, phân bổ việc cho các kế toán viên để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ.
    • Sử dụng máy vi tính thành thạo đặc biệt là Excel và phần mềm kế toán.

    5. Yêu cầu về những kiến thức mà kế toán tổng hợp cần học là gì?

    Đối với nghề kế toán nói chung và kế toán tổng hợp nói riêng, kiến thức chính là “vũ khí” quan trọng nhất, không có kiến thức thì các bạn sẽ khó có thể vững bước trong nghề. Những kiến thức mà một kế toán tổng hợp cần học có thể kể đến như:

    • Một kế toán tổng hợp cần hiểu và thực hành tốt từ những kiến thức cơ bản nhất đến phức tạp nhất, bao gồm: nguyên lý kế toán, kế toán tiền, kế toán bán hàng, kế toán thuế, kế toán bán hàng, kế toán công nợ, luật thuế, luật kế toán và các thông tư, quy định liên quan,…
    • Kế toán tổng hợp là một vị trí cần thiết để giúp các bạn tiến xa hơn trên con đường sự nghiệp của mình trong ngành tài chính kế toán. Khi đảm nhận qua vị trí kế toán tổng hợp, các bạn có thể dễ dàng thăng tiến lên vị trí kế toán trưởng hay giám đốc tài chính trong tương lai.

    Những yêu cầu về kiến thức trong nghề kế toán nói chung và công việc kế toán tổng hợp nói riêng luôn đòi hỏi nhân viên kế toán phải không ngừng nâng cao chuyên môn của mình.

    Nắm được nhu cầu thiết yếu này, NewTrain mang đến khóa học Kế toán tổng hợp thực hành giúp học viên có thể hệ thống lại kiến thức từ những điều cơ bản nhất đồng thời nâng cao các kiến thức chuyên sâu. 

    Tại khóa học, các học viên được trực tiếp thực hành trên 2-3 bộ chứng từ kế toán thực tế theo đặc thù từng doanh nghiệp, được cung cấp miễn phí phần mềm kế toán Misa có bản quyền giúp bạn có thể hiểu rõ bản chất khi thực hành và ghi nhớ lâu.

    Ngoài ra, trung tâm mang đến chính sách hỗ trợ online 24/7 và hỗ trợ trọn đời cho các học viên, giúp giải đáp thắc mắc, đồng hành và mang đến những cơ hội tốt cho các bạn trong suốt thời gian theo đuổi sự nghiệp trong nghề kế toán.

    Chi tiết về khóa học các bạn vui lòng tham khảo qua link dưới đây:

    Khóa học kế toán tổng hợp thực hành

    Hoặc liên hệ với chúng tôi qua: 

    Hy vọng với những thông tin trên, bạn đã nắm được kế toán tổng hợp là gì và cần làm gì để có thể trở thành một nhân viên kế toán xuất sắc nhất. Nếu muốn nâng cao giá trị bản thân và tìm được vị trí cùng mức lương cao hơn, hãy đến trung tâm đào tạo kế toán NewTrain ngay hôm nay nhé! 

    Tác động của toàn cầu hoá đối với sự phát triển đội ngũ trí thức và Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam

    Toàn cầu hoá hiện nay dựa trên cơ sở và nguồn lực là kinh tế tri thức cho nên những tác động của nó ảnh hưởng trực tiếp nhất đến nguồn lực chủ yếu của phát triển kinh tế – xã hội nước ta: đó là đội ngũ trí thức đang có mặt trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, trước hết là trong các hoạt động lãnh đạo và quản lý.

    1. Tác động của toàn cầu hoá đối với trí thức trong lĩnh vực kinh tế

    Trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hoá kinh tế là mặt chủ đạo quyết định quy mô và trình độ của toàn cầu hoá trên các lĩnh vực khác. Vì vậy, tác động của toàn cầu hoá kinh tế có bề rộng và chiều sâu cả về kinh tế và chính trị.

    a. Trong giai đoạn nước ta lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm thì việc xử lý những tác động của toàn cầu hoá kinh tế có dựa trên những căn cứ khoa học thực tiễn hay không sẽ có quan hệ đến thành bại của quá trình thực hiện các mục tiêu chiến lược trong đường lối phát triển kinh tế – xã hội.

    Vì vậy, thái độ đối với tác động của toàn cầu hoá kinh tế của những trí thức đang hoạt động trong hệ thống lãnh đạo và quản lý kinh tế ở vĩ mô và vi mô có ý nghĩa quan trọng đến toàn cục.

    Sự thách thức đối với bộ phận này là ở khả năng vươn tới tầm tư duy khoa học và hệ thống trong lĩnh vực kinh tế – chính trị. Từ đó, mới có năng lực xử lý thông tin làm cơ sở cho mọi hoạt động sáng tạo của mình và của cả hệ thống. Đối với một số người thì còn phải vượt qua ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm và thói quen của những công chức hành chính quan liêu hoặc còn vướng trong động cơ mưu cầu danh lợi.

    Một vấn đề quan trọng nữa đối với bộ phận trí thức đang hoạt động lãnh đạo, quản lý kinh tế là phải giải quyết những vấn đề thực tiễn trong trạng thái quá độ từ thời đại kinh tế cũ (với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai đoạn kinh tế công nghiệp) lên thời đại kinh tế mới (với nền kinh tế tri thức hướng tới một xã hội mới). Khi nhân loại đã đi vào thế kỷ XXI với nền kinh tế tri thức và xu hướng phát triển bền vững thì tầm nhìn của những trí thức đang hoạt động lãnh đạo và quản lý kinh tế phải hướng tới thời đại kinh tế mới khi giải quyết những vấn đề quá độ.

    b. Toàn cầu hoá kinh tế dựa trên nền kinh tế tri thức nên sự thay đổi về chất trước hết ở hình thành lực lượng sản xuất mới, trong đó nguồn lực hàng đầu là tri thức chứ không phải là tài nguyên hay vốn tài chính như trước đây. Thắng bại trong cuộc cạnh tranh kinh tế hiện nay, suy cho cùng quyết định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Vì vậy, tác động của toàn cầu hoá đối với bộ phận trí thức trong các doanh nghiệp và các cơ sở kinh tế thể hiện ở:

    – Sớm làm cho khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

    – Đổi mới mối quan hệ giữa trí thức với công nhân, liên kết
    thành lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội.

    – Đề ra nhu cầu nghiên cứu, ứng dụng các vấn đề thực tiễn cho bộ phận trí thức trong các viện nghiên cứu, các trường đại học và cao đẳng.

    – Cùng với các cơ sở nghiên cứu và trường học, thực hiện thường xuyên quá trình “xã hội hoá tri thức”, làm cho mặt bằng tri thức trong sản xuất và kinh doanh, trong quản lý vi mô và vĩ mô không ngừng được nâng cao.

    c. Sự phát triển của toàn cầu hoá kinh tế đã làm cho các dòng vốn đầu tư của thế giới, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có vai trò rất lớn đối với tăng trưởng kinh tế của đất nước. Hiện nay, khối lượng hàng hoá và dịch vụ do nhiều chi nhánh ở nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia bán được lớn hơn nhiều tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới. Như vậy, sản xuất của thế giới dựa nhiều hơn vào sự di chuyển của dòng đầu tư trực tiếp giữa các nước so với buôn bán thế giới.

    Tác động của toàn cầu hoá thông qua dòng đầu tư trực tiếp thể hiện ở hai phía: đối với các công ty đầu tư nước ngoài là nhằm thực hiện và củng cố lợi thế cạnh tranh liên quan đến công nghệ tiên tiến. Đối với nước nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài là mong muốn tiếp nhận chuyển giao công nghệ, năng lực quản lý và vốn tài chính nhằm nâng cao sức cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra tiếp nhận đầu tư nước ngoài sẽ thúc đẩy quá trình phân công lại lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế.

    Những tác động tích cực của tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ đạt được khi nước ta chuẩn bị được nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu chuyển giao công nghệ, yêu cầu quản lý hiện đại. Vì vậy, đòi hỏi thực hiện đào tạo và nâng cao trình độ cho lực lượng lao động của các dự án đầu tư và cán bộ quản lý. Các công ty xuyên quốc gia có những hoạt động đào tạo nhân lực, được coi là một hình thức chuyển giao công nghệ cho dự án đầu tư. Như vậy, thông qua phát triển hình thức đầu tư trực tiếp, nước ngoài sẽ góp phần thúc đẩy quá trình phát triển đội ngũ lao động tri thức – lực lượng lao động này quyết định trình độ cạnh tranh và sự phồn vinh của đất nước.

    d. Hình thành và phát triển một đội ngũ doanh nhân kiểu mới là một đòi hỏi trước những tác động của toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập quốc tế. Ngày nay ai cũng thấy rõ, toàn cầu hoá kinh tế dựa trên động lực và sức mạnh của kinh tế tri thức. Quá trình chuyển biến từ nền công nghiệp lớn lên nền kinh tế tri thức là quá trình kết hợp những thành tựu của hai cuộc cách mạng: cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và cách mạng kinh tế (người ta còn gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba). Hiệu quả vận dụng thành tựu khoa học công nghệ vào lĩnh vực kinh tế phụ thuộc vào hiệu quả của cách mạng kinh tế (đổi mới hình thức tổ chức kinh tế, năng lực quản lý doanh nghiệp và năng lực quản lý nhà nước).

    Theo thời gian, kinh tế tri thức càng phát triển thì càng thúc đẩy một đội ngũ doanh nhân kiểu mới ra đời. Họ là những trí thức hoạt động trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Đội ngũ này khác nhiều so với đội ngũ doanh nhân trong nền công nghiệp lớn, giống như lao động trong nền kinh tế tri thức khác với lao động trong nền công nghiệp cơ khí.

    Lực lượng chủ yếu để tham gia toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập quốc tế chính là đội ngũ doanh nhân mới, còn các cơ quan nhà nước (như ngoại giao, thương mại,…) là tạo điều kiện, mở đường cho họ hoạt động có hiệu quả.

    2. Tác động của toàn cầu hoá đối với trí thức trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục

    Do toàn cầu hoá dựa trên động lực và sức mạnh của kinh tế tri thức nên tác động của nó đối với những trí thức đang hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục ngày càng tăng, ngày càng có tính chất trực tiếp. Điều này bắt nguồn từ đặc điểm của lực lượng sản xuất mới trong nền kinh tế tri thức đòi hỏi một mặt, tri thức không ngừng được xã hội hoá, mặt khác, xã hội không ngừng được tri thức hoá. Chính vì vậy, mối quan hệ tương tác giữa kinh tế tri thức với văn hoá, xã hội, giáo dục ngày càng gắn bó. Mối quan hệ đó thúc đẩy thông qua tác động của toàn cầu hoá.

    Tác động của toàn cầu hoá đối với những trí thức hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục đã đặt ra những vấn đề sau đây đòi hỏi nhận thức đúng:

    a. Mối quan hệ giữa văn hoá phương Đông với văn hoá phương Tây. Đây là vấn đề đang tranh luận ở nhiều nước với các quan điểm khác nhau.

    b. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong xã hội “hậu công nghiệp” khác trong xã hội công nghiệp. Sự khác nhau tập trung ở hai vấn đề: con người trong mối quan hệ với xã hội và với tự nhiên; con người phát triển toàn diện khác với con người chủ nghĩa cá nhân.

    c. Đối với những vấn đề về lực lượng sản xuất mới, nền văn hoá mới, con người mới nói trên thì người ta mong đợi nhiều sự phát triển nền giáo dục mới. Chính vì vậy mà toàn cầu hoá đang gây ra sức ép mạnh mẽ đối với những trí thức hoạt động giáo dục, đang tham gia quá trình cải cách giáo dục.

    d. Trong quá trình phát triển kinh tế tri thức và toàn cầu hoá còn đưa đến những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu xã hội dân cư. Trong giai đoạn quá độ hiện nay, cơ cấu xã hội – giai cấp trong xã hội công nghiệp vẫn còn và đang biến đổi, nhưng một xã hội mới đang dần hình thành do sự phát triển phân công lao động mới trong nền kinh tế tri thức và toàn cầu hoá kinh tế. Những nét mới thấy được của cơ cấu xã hội đang hình thành là:

    – Giai cấp công nhân đang phát triển ở trình độ mới hình thành những người lao động tri thức, có vai trò ngày càng tăng trong lao động sáng tạo và quản lý.

    – Lần đầu tiên trong lịch sử, khoảng cách giữa lao động chân tay với lao động trí óc (do lịch sử sinh ra từ phân công lao động cũ) đang được thu hẹp và mờ dần. Người công nhân mới cùng với các chuyên gia đang kết hợp thành lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội mới.

    – Sự phân công lao động mới trong nền kinh tế tri thức được thúc đẩy bởi toàn cầu hoá đã đưa đến hình thành tầng lớp trung lưu (hay tầng lớp hữu sản, không phải là vô sản cũng không phải là tư sản). ở các nước đang phát triển kinh tế thị trường trong thời đại hiện nay đều hình thành tầng lớp trung lưu. ở Trung Quốc đã có hơn 15% dân số thuộc tầng lớp này. Xu hướng “dân giàu, nước mạnh” sẽ thể hiện ở một trong những tiêu chí là sự ra đời và phát triển tầng lớp trung lưu như là con đẻ của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn kinh tế tri thức và toàn cầu hoá. Những công nhân, nông dân trí thức sẽ trở thành một bộ phận ngày càng lớn của tầng lớp trung lưu. Đó là sự giải phóng lần thứ hai khi công nông vượt ra khỏi tình trạng vô sản chuyển thành những người hữu sản văn minh.

    3. Tác động của toàn cầu hoá với mối quan hệ giữa chính trị – xã hội và khoa học công nghệ

    Khoa học là lĩnh vực hoạt động sáng tạo nhằm tìm tòi những quy luật, xu hướng phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy vì sự phát triển của xã hội loài người. Sự phân biệt giữa văn minh với dã man, tự do với tất yếu đều gắn liền với trình độ phát triển khoa học. Tuy vậy, từ xưa đến nay, sự thực hiện chức năng khoa học đều gắn liền với môi trường chính trị – xã hội lại do những điều kiện lịch sử quy định, không thể từ mong muốn chủ quan.

    a. Trong thời đại chủ nghĩa tư bản, khoa học công nghệ đã phát triển chưa từng có, là nhân tố chủ yếu tạo ra sự giàu có của chủ nghĩa tư bản. Nhưng môi trường chính trị – xã hội của chủ nghĩa tư bản đã làm cho tiến bộ khoa học công nghệ mang tính chất hai mặt. Theo quan điểm của trường phái Phranphuốc thì “Tiến bộ khoa học kỹ thuật = Tăng trưởng của cải xã hội = Phát triển nô dịch”. Tiến bộ khoa học kỹ thuật do con người tạo ra nhưng trở thành lực lượng khống chế, thậm chí nô dịch con người. Trong các chế độ bá quyền hay độc tài thì khoa học kỹ thuật bị tha hoá thành công cụ thống trị chính trị.

    Sự ra đời kinh tế tri thức và phát triển toàn cầu hoá, một mặt đã mở rộng cả mặt tích cực và tiêu cực của tiến bộ khoa học kỹ thuật ra toàn cầu, mặt khác đã có nhiều nhà khoa học và dân chúng lên tiếng phê phán và đòi hỏi “nhân đạo hoá và nhân văn hoá khoa học” theo các phương hướng:

    – Loại trừ khả năng lạm dụng những thành tựu khoa học.

    – Khai thác sử dụng giới tự nhiên một cách cân bằng.

    – Khắc phục tính phiến diện và tuyệt đối hoá việc nhận thức bằng phương pháp thực nghiệm duy lý.

    – Bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp cần thiết cho cán bộ khoa học, giúp bản thân nhà khoa học phát triển toàn diện và hài hoà nhằm phát huy cao độ tiềm năng sáng tạo của mỗi người.

    – Nhà nước bảo đảm cho khoa học có một vị thế tương đối và sự ủng hộ về mặt đạo đức của xã hội.

    Như vậy, vai trò của đội ngũ khoa học công nghệ phát huy như thế nào đều gắn liền với môi trường chính trị – xã hội. Ngoài ra từ cuối thế kỷ XX trở đi, xu hướng phát triển hài hoà giữa khoa học tự nhiên với khoa học xã hội trong nền khoa học hiện đại, trong đội ngũ và trong mỗi nhà khoa học đang mở ra triển vọng to lớn và tính khả thi về thực hiện quá trình nhân đạo hoá khoa học. Tính chất tiên tiến của một nền khoa học quốc gia còn được đánh giá từ tiêu chí nhân đạo hoá khoa học.

    b. Do môi trường chính trị – kinh tế khác nhau, nên hiện nay vấn đề lưu động chất xám ngày càng tăng cùng với phát triển toàn cầu hoá. Trong đó có vấn đề “chảy máu chất xám” của nhiều quốc gia

    … Tình trạng mất đi những người được đào tạo chuyên môn ở trong và ngoài nước được người ta coi là “sự tàn phá đặc biệt” đối với quốc gia ở thời kỳ phát triển trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế gay gắt. Gần đây, tình trạng những người có chuyên môn tuy không ra đi, nhưng không được sử dụng đúng hoặc phải chuyển nghề để kiếm sống cũng được người ta coi là một “sự tàn phá bên trong”.

    Hiện nay, xu hướng phát triển bền vững đang ngày càng có tác động tích cực đến việc cải thiện môi trường chính trị – xã hội cho phù hợp với nhu cầu nhân đạo hoá và nhân văn hoá khoa học.

    4. Tác động của toàn cầu hoá đối với sự phát triển của các Hội khoa học kỹ thuật nước ta

    Các Hội khoa học kỹ thuật nước ta và Liên hiệp hội được xác định là một lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò và nhiệm vụ ấy càng nặng nề trước những tác động của sự phát triển kinh tế tri thức và toàn cầu hoá. Có thể nói, tác động toàn cầu hoá đối với sự phát triển của đội ngũ trí thức cũng là tác động đối với các tổ chức của họ.

    Phương hướng phát triển cùng với phương thức và phương pháp hoạt động của các tổ chức này có hiệu quả tốt hay không tuỳ thuộc rất nhiều vào thái độ xử lý của những người điều hành các Hội trước thực tiễn biến đổi nhanh của đất nước và tác động của toàn cầu hoá.

    Tác động của toàn cầu hoá đặt ra những vấn đề gì cho các Hội và Liên hiệp hội?

    a. Trước hết đòi hỏi có tầm nhìn sáng tỏ những xu hướng của thời đại, của khoa học công nghệ, góp phần nâng cao nhận thức của các thành viên trong hoạt động thực tiễn.

    b. Đổi mới phương thức hoạt động, lấy hiệu quả kinh tế – xã hội, hiệu quả phát triển tri thức và phương pháp làm thước đo, làm cho một tổ chức khoa học khác với một tổ chức hành chính.

    c. Do kinh tế tri thức và toàn cầu hoá phát triển nhanh, nên cần coi trọng công tác thông tin, nâng cao năng lực xử lý thông tin, tránh tình trạng “no thông tin, đói nhận thức”, nhằm nâng cao trình độ các thành viên.

    d. Sớm tìm tòi những hình thức liên kết phối hợp với công nhân trong công nghiệp và xây dựng, với nông dân trong các lĩnh vực nông nghiệp theo hướng hình thành lực lượng sản xuất mới.

    đ. Tổ chức khoa học theo phương pháp hệ thống, trong đó phát huy đầy đủ vai trò cá nhân nhà khoa học và vai trò tập thể khoa học. Xử lý tốt mối quan hệ cá nhân và tập thể. ở đây, “trái ngược không phải mâu thuẫn, mà chúng bổ sung cho nhau”. Trước thực tiễn biến đổi nhanh, bổ sung và hoàn thiện cho nhau trở thành một nhu cầu phát triển tri thức và các tổ chức khoa học.

    Toàn cầu hóa và tình trạng “chảy máu” nhân tài

    Từ những thực tế cho thấy, nền kinh tế toàn cầu hóa hiện nay đang biến động khôn lường khiến cho các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường ngày nay chưa chắc đã giữ được vị trí ngày mai. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt lai đang có khoảng trống lớn trong việc theo đuổi và thích nghi với thời cuộc. Không chỉ đối mặt với những cạnh tranh về dịch vụ – sản phẩm, doanh nghiệp Việt còn phải đứng trước nguy cơ cạnh tranh về con người.

     width=

    Thiếu người làm được việc

    Nguồn nhân lực chính là yếu tố tiên quyết đối với sự phát triển và trường tồn của mỗi doanh nghiệp . Các doanh nghiệp nước ngoài tận dụng lợi thế về nhiều mặt để thu hút lao động tại Việt Nam khiến cho các doanh nghiệp Việt ngày càng đứng trước nguy cơ “chảy máu nhân tài” và tạo ra khoảng cách đối với các nước dẫn đầu. Các nước như Singapore, Thái Lan… được dự báo là nơi thu hút nhân tài trong khu vực. Trong khi hầu hết các doanh nghiệp đều mong muốn tuyển được những người tài, thì nguồn nhân lực có chất lượng hiện nay lại có tâm lý thích làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài hay các doanh nghiệp lớn.

    Sự thiếu hụt nguồn nhân lực có đủ năng lực và chuyên môn để đảm nhiệm các vị trí quan trọng như hiện nay tại Việt Nam chính là nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn và đình trệ. Một khảo sát mới đây tại TP.HCM cho thấy, tình trạng thiếu hụt trầm trọng lao động có trình độ cao đứng đầu là trong ngành công nghiệp, 67% doanh nghiệp trong lĩnh vực này cho rằng họ không được đáp ứng nhu cầu về cán bộ quản lý. Tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ, với 51% số DN được hỏi cho biết thiếu cán bộ quản lý có chất lượng. Thị trường lao động, nửa đầu năm 2015 Việt Nam chứng kiến làn sóng chuyển việc của giới nhân sự và quản lý cấp cao. Một DN tại TP.HCM kể rằng, 3 năm qua họ mất đi 3 nhân sự cao cấp là các trưởng phòng, nắm giữ vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Một người chuyển ra nước ngoài làm việc, còn 2 người chuyển sang làm cho công ty FDI với thu nhập cao hơn. Ngoài khó khăn tìm kiếm nhân sự có năng lực, các doanh nghiệp cũng thông báo họ phải đào tạo lại hầu hết mọi lao động khi nhận vào làm việc ở mọi cấp bậc, từ công nhân kỹ thuật đến các cử nhân, thạc sỹ,… do chất lượng đào tạo yếu kém.

    Cuộc chiến nhân tài

    Trước sự thiếu hụt nhân lực chất lượng cao như hiện nay và việc cộng đồng kinh tế ASEAN được thành lập vào cuối năm nay sẽ tạo nên một cuộc chiến nhân tài khốc liệt, doanh nghiệp Việt Nam sẽ càng khó khăn hơn trong việc tìm kiếm và giữ chân nhân tài. Khi đó, người lao động có đủ năng lực và trình độ sẽ có nhiều lựa chọn hơn tại các tập đoàn đa quốc gia, cũng như các nước trong khu vực. Theo ông Mark Billington, Giám đốc khu vực Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh & xứ Wales (ICAEW), một “cuộc chiến” giành giật nhân tài đang diễn ra, bởi sở hữu nhân tài tốt sẽ có những sáng tạo trong tương lai. Đây không chỉ là “cuộc chiến” toàn cầu mà còn là “cuộc chiến” trong khu vực ASEAN. Nhiều doanh nghiệp tại Singapore, Thái Lan, Malaysia,… đang “bủa lưới” rộng hơn để thu hút người tài không chỉ trong nước mà cả nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam cần có chính sách để giữ chân những người tài giỏi, cùng với đó là chiến lược phát triển nhân sự, nếu không sẽ thất bại ngay tại sân nhà.

    Tư duy mới trong quản trị nguồn nhân lực

    Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập sâu rộng cùng thế giới và cuộc chiến nhân tài đang diễn ra hiện nay, thì lời giải cho bài toán năng lực cạnh tranh toàn cầu đối với các doanh nghiệp Việt Nam không nằm ở đâu khác ngoài việc tư duy lại về phương pháp, chiến lược cũng như năng lực của người làm nhân sự, chứ không đơn thuần là cách quản lý theo hồ sơ, tài liệu, tính lương thưởng như hiện nay.

    Theo nghiên cứu mới nhất của Hiệp hội Quản trị Nhân sự Hoa Kỳ (SHRM), tổ chức lớn và có ảnh hưởng toàn cầu dành cho những người làm nghề Quản trị Nhân sự cho rằng ba thách thức lớn nhất đặt ra cho những người làm Nhân sự là “Giữ chân và tưởng thưởng người tài”, “Phát triển đội ngũ lãnh đạo kế nhiệm” và “Xây dựng một văn hóa doanh nghiệp có khả năng thu hút những người giỏi nhất đến làm việc”. Với nghiên cứu này, SHRM cũng khẳng định mạnh mẽ rằng vai trò của những người làm nhân sự trong thời đại mới không còn giới hạn trong những công việc quản trị hành chính, vận hành, mà đã mở rộng hết sức mạnh mẽ sang những công việc mang tầm chiến lược, đòi hỏi sự thấu hiểu về tầm nhìn, định hướng và bản chất kinh doanh, cũng như khả năng xây dựng văn hóa doanh nghiệp và giữ chân, phát triển người tài thành đội ngũ lãnh đạo kế nhiệm cho công ty trong tương lai.

    Để làm được điều này, giới nhân sự cần trang bị cho bản thân những kiến thức và năng lực mới theo chuẩn mực toàn cầu, từ đó chủ động đưa ra những chiến lược tìm kiếm, phát triển và giữ chân người tài thành đội ngũ lãnh đạo kế nhiệm cho doanh nghiệp trong tương lai.

    (Trường PACE)

    Chương trình Đào tạo & Luyện thi “Chứng chỉ Chuyên gia Nhân sự SHRM”

    SHRM-CP (SHRM Certified Professional) và SHRM-SCP (SHRM Senior Certified Professional) là hai chứng chỉ nghề nghiệp danh giá toàn cầu dành cho những người làm nghề quản trị nhân sự, được chứng nhận và cấp bởi Hiệp hội Quản trị Nhân sự Hoa Kỳ / Society for Human Resource Management (SHRM) – tổ chức có ảnh hưởng lớn trên toàn cầu dành cho những người làm nghề quản trị nhân sự, với hơn 275.000 Hội viên từ trên 160 quốc  gia.

    Chương trình Đào tạo & Luyện thi hai chứng chỉ đặc biệt này tại Việt Nam được triển khai bởi Trường Doanh Nhân PACE – Đối tác độc quyền để triển khai các chương trình đào tạo đẳng cấp thế giới về quản trị nhân sự của SHRM tại Việt Nam. Giảng viên chính của chương trình là chuyên gia hàng đầu về quản trị nhân sự đến từ SHRM Hoa Kỳ.

    Nội dung chương trình được dựa theo “Khung Năng lực & Kiến thức của SHRM” (SHRM Body of Competency & Knowledge™) do SHRM nghiên cứu & phát triển trong nhiều năm nhằm giúp người làm nghề nhân sự trên khắp thế giới đạt được sự phát triển toàn diện cả về kiến thức lẫn kỹ năng, về năng lực chuyên môn lẫn năng lực hành vi theo chuẩn mực toàn cầu. Tài liệu học tập của chương trình là bộ “SHRM Learning System” (trọn bộ gồm 5 quyển sách) hiện được xem là hệ thống học liệu số 1 thế giới dành cho nghề quản trị nhân sự.

    Xin vui lòng xem thông tin chi tiết tại: http://shrm.pace.edu.vn/ 

    Share
    Follow

    ABOUT US

    LEAF DESIGN® CO., LTD since 2015 | MST 0313737578

    Hotline: 09 666 235 04 | Email: leaf@leafdesign.vn

    "interior design & construction" Copyright © LEAF design | Appeared on FACEBOOK | INSTAGRAM | YOUTUBE | WEBSITE

    Loading...