Không có cảnh báo sóng thần đưa ra
Hiện trường đổ nát sau trận động đất ở Selong, đảo Lombok, Indonesia, ngày 17/3. (Nguồn: AFP/TTXVN).
Tiếp tục cập nhật thông tin về trận động đất mới nhất xảy ra sáng nay (16/7) tại phía Nam đảo nghỉ dưỡng Bali của Indonesia, Cơ quan Giám sát động đất châu Âu (EMSC) thông báo chấn tiêu của cơn địa chấn ở vị trí cách khu Denpasar trên đảo Bali 102km về phía Tây Nam và có độ sâu 100km.
Trung tâm Cảnh báo sóng thần Thái Bình Dương đã không đưa ra cảnh báo nguy cơ sóng thần sau trận động đất này.
Đây là trận động đất thứ hai xảy ra tại Indonesia trong ba ngày qua.
Trước đó, chiều 14/7 đã xảy ra một trận động đất cường độ 7,3 ở miền Đông Indonesia. Chấn tiêu động đất nằm ở độ sâu 10km tại khu vực cách đảo Ternate 168km về phía Nam-Đông Nam. Đã có người thiệt mạng và nhiều cơ sở hạ tầng bị hư hại trong cơn địa chấn này.
Indonesia thường xuyên xảy ra động đất và núi lửa, do nước này nằm trên “Vành đại Lửa Thái Bình Dương.” Năm ngoái, một trận động đất mạnh 7,5 độ kéo theo sóng thần tại Palu trên đảo Sulawesi đã làm hơn 2.200 người thiệt mạng và hàng nghìn người mất tích.
Ngày 26/12/2004, một trận động đất cường độ 9,1 đã làm rung chuyển vùng bờ biển Sumatra và gây sóng thần làm 220.000 người thiệt mạng trong khu vực lân cận, trong đó có 170.000 người tại Indonesia.
Theo TTXVN
Sóng thần là gì? Khi nào xảy ra sóng thần?
Sóng thần là một trong những thiên tai có sức tàn phá khủng khiếp nhất của nhân loại.
Sóng thần là gì?
Sóng thần (tsunami) là một loạt các đợt sóng tạo nên khi một thể tích lớn của nước đại dương bị chuyển dịch chớp nhoáng trên một quy mô lớn. Động đất cùng những dịch chuyển địa chất lớn bên trên hoặc bên dưới mặt nước, núi lửa phun và va chạm thiên thạch đều có khả năng gây ra sóng thần. Hậu quả tai hại của sóng thần có thể ở mức cực lớn, giết chết bằng nhấn chìm trong nước đến hàng trăm ngàn người trong vài giờ.
Sóng thần.
Thuật ngữ tsunami (sóng thần) bắt nguồn từ tiếng Nhật có nghĩa “bến” (津 tsu, âm Hán Việt: “tân”) và “sóng” (波 nami, “ba”). Thuật ngữ này do các ngư dân đặt ra dù lúc đó họ không biết nguyên do là sóng xuất phát ở ngoài xa khơi. Cơn sóng thần khởi phát từ dưới đáy biển sâu, khi còn ngoài xa khơi, sóng có biên độ (chiều cao sóng) khá nhỏ nhưng chiều dài của cơn sóng lên đến hàng trăm km. Vì vậy khi ở xa bờ chúng ta khó nhận diện ra nó, mà chỉ cảm nhận là một cơn sóng cồn trải dài.
Nguyên nhân hình thành sóng thần
Các trận sóng thần có thể hình thành khi đáy biển, đột ngột bị biến dạng theo chiều dọc, chiếm chỗ của lượng nước nằm trên nó. Những sự di chuyển lớn theo chiều dọc như vậy của vỏ Trái Đất có thể xảy ra tại các rìa mảng lục địa. Những trận động đất do nguyên nhân va chạm mảng đặc biệt hay tạo ra các cơn sóng thần. Khi một mảng đại dương va chạm với một mảng lục địa, đôi khi nó làm rìa mảng lục địa chuyển động xuống dưới. Cuối cùng, áp suất quá lớn tác dụng lên rìa mảng khiến nó nhảy giật lùi lại (snaps back) tạo ra các đợt sóng chấn động vào vỏ Trái Đất, khiến xảy ra cơn địa chấn dưới lòng biển, được gọi là động đất tại đáy biển.
Những vụ lở đất dưới đáy biển (thỉnh thoảng xảy ra vì nguyên nhân động đất) cũng như những vụ sụp đổ của núi lửa cũng có thể làm chấn động cột nước khiến trầm tích và đá trượt xuống theo sườn núi rơi xuống đáy biển. Tương tự như vậy, một vụ phun trào núi lửa mạnh dưới biển cũng có thể tung lên một cột nước để hình thành sóng thần. Các con sóng được hình thành khi khối lượng nước bị dịch chuyển vị trí chuyển động dưới ảnh hưởng của trọng lực để lấy lại thăng bằng và tỏa ra trên khắp đại dương như các gợn sóng trên mặt ao.
Sự hình thành sóng thần.
Trong thập kỷ 1950 người ta đã khám phá ra rằng những cơn sóng thần lớn có thể xuất hiện từ các vụ lở đất, hoạt động phun trào núi lửa và các vụ va chạm thiên thạch. Những hiện tượng đó khiến một lượng nước lớn nhanh chóng bị chuyển chỗ, khi năng lượng từ một thiên thạch hay một vụ nổ chuyển vào trong nước nơi xảy ra va chạm. Các cơn sóng thần với xuất hiện từ những nguyên nhân đó, khác với những trận sóng thần do động đất gây ra, thường nhanh chóng tan rã và hiếm khi lan tới những bờ biển quá xa vì diện tích xảy ra sự kiện nhỏ. Các hiện tượng đó có thể gây ra các cơn sóng địa chấn lớn chỉ trong một khu vực. Tuy nhiên, một vụ lở đất cực lớn có thể gây ra một trận sóng thần cực lớn gây ảnh hưởng trên toàn bộ đại dương.
Các đặc điểm của sóng thần
Sóng thần diễn biến rất khác biệt tùy theo kiểu sóng: chúng chứa năng lượng cực lớn, lan truyền với tốc độ cao và có thể vượt khoảng cách lớn qua đại dương mà chỉ mất rất ít năng lượng. Một trận sóng thần có thể gây ra thiệt hại trên bờ biển cách hàng nghìn cây số nơi nó phát sinh, vì thế chúng ta có thể có nhiều tiếng đồng hồ chuẩn bị từ khi nó hình thành tới lúc ập vào một bờ biển, nó xuất hiện một thời gian khá dài sau khi sóng địa chấn hình thành từ nơi xảy ra sự kiện lan tới. Năng lượng trên mỗi mét dài trong sóng tỷ lệ với nghịch đảo của khoảng cách từ nguồn phát.
Thậm chí một trận sóng thần riêng biệt có thể liên quan tới một loạt các đợt sóng với những độ cao khác nhau. Ở vùng nước rộng, các cơn sóng thần có chu kỳ rất dài (thời gian để đợt sóng sau tới vị trí một điểm sau đợt sóng trước), từ nhiều phút tới nhiều giờ, và chiều dài sóng dài lên tới hàng trăm kilômét. Điều này rất khác biệt so với các con sóng hình thành từ gió bình thường trên mặt đại dương, chúng thường có chu kỳ khoảng 10 giây và chiều dài sóng 150 mét.
Sóng thần ở Nhật Bản năm 2011.
Chiều cao thực của một đợt sóng thần trên đại dương thường không tới một mét. Điều này khiến những người ở trên tàu giữa đại dương khó nhận ra chúng. Bởi vì chúng có chiều dài sóng lớn, năng lượng của một cơn sóng thần điều khiển toàn bộ cột nước, hướng nó xuống phía đáy biển. Các cơn sóng đại dương ở vùng nước sâu thường xuất hiện do chuyển động của nước tính từ bề mặt đến một độ sâu bằng một nửa chiều dài sóng. Điều này có nghĩa rằng sự di chuyển của sóng bề mặt đại dương chỉ đạt tới độ sâu khoảng 100 m hay ít hơn. Trái lại, những cơn sóng thần hoạt động như những con sóng vùng nước nông giữa biển khơi (bởi chiều dài của chúng ít nhất lớn gấp 20 lần chiều sâu nơi chúng hoạt động), bởi sự phân tán chuyển động của nước ít xảy ra nơi nước sâu.
Con sóng đi qua đại dương với tốc độ trung bình 500 dặm một giờ. Khi tiến tới đất liền, đáy biển trở nên nông và con sóng không còn di chuyển nhanh được nữa, vì thế nó bắt đầu “dựng đứng lên”; phần phía trước con sóng bắt đầu dựng đứng và cao lên, và khoảng cách giữa các đợt sóng ngắn lại. Tuy một người ở ngoài đại dương có thể không nhận thấy dấu hiệu sóng thần, nhưng khi vào bờ nó có thể đạt chiều cao một tòa nhà sáu tầng hay hơn nữa. Quá trình dựng đứng lên này tương tự như khi ta vẩy một chiếc roi da. Khi sóng tiến từ phía cuối ra đầu roi, cùng một lượng năng lượng phân bố trong khối lượng vật liệu ngày càng nhỏ, khiến chuyển động trở nên mãnh liệt hơn. Càng đi vào đất liền, tốc độ di chuyển sẽ chậm lại nhưng ngọn sóng cao.
Một con sóng trở thành một con “sóng nước nông” khi tỷ lệ giữa độ sâu mặt nước và chiều dài sóng của nó rất nhỏ, và bởi vì sóng thần có chiều dài sóng rất lớn (hàng trăm kilômét), các cơn sóng thần hoạt động như những cơn sóng nước nông ngay bên ngoài đại dương. Những con sóng nước nông di chuyển với tốc độ bằng căn bậc hai của tích giữa gia tốc trọng trường (9.8m/s2) và chiều sâu nước. Ví dụ, tại Thái Bình Dương, với độ sâu trung bình 4000m, một cơn sóng thần di chuyển với tốc độ khoảng 200m/s (720km/h hay 450 dặm/giờ) và mất ít năng lượng, thậm chí đối với những khoảng cách lớn. Ở độ sâu 40m, tốc độ sẽ là 20m/s (khoảng 72km/h hay 45 dặm/giờ), nhỏ hơn tốc độ trên đại dương nhưng rõ ràng con người không thể chạy nhanh hơn tốc độ này.
Người dân Hawai’i chạy trốn trước một cơn sóng thần đang ập vào Hilo, Hawai’i.
Dấu hiệu của một đợt sóng thần sắp tới
Những dấu hiệu sau đây thường báo trước một cơn sóng thần:
- Cảm thấy động đất. Nếu cảm thấy nền đất rung lắc mạnh đến mức không còn đứng vững được, thì nhiều khả năng sẽ xảy ra một trận sóng thần.
- Các bong bóng chứa khí gas nổi lên mặt nước làm ta có cảm giác như nước đang bị sôi.
- Nước trong sóng nóng bất thường.
- Nước có mùi trứng thối (khí hyđro sulfua) hay mùi xăng, dầu.
- Nước làm da bị mẩn ngứa.
- Nghe thấy một tiếng nổ như là: tiếng máy nổ của máy bay phản lực, tiếng ồn của cánh quạt máy bay trực thăng, hay là tiếng huýt sáo.
- Biển lùi về sau một cách đáng chú ý.
- Mây đen vần vũ đầy trời.
- Vệt sáng đỏ ở đường chân trời.
- Khi sóng thần ập vào bờ, sẽ có tiếng gầm rú giống như chuyến tàu hỏa đang đến gần.
- Hàng triệu con chim hải âu bay ngược biển.
- Nhiều đất nước khi có sóng thần, thường hay có những tiếng còi cảnh báo rú lên.
Động đất là gì? Động đất được hình thành như thế nào?
Sóng thần mới nhất ở Indonesia đặt ra câu hỏi toàn cầu về phòng chống thiên tai
(TN&MT) – Khi Indonesia đang quay cuồng sau thảm họa sóng thần, các nhà chức trách trên toàn cầu tập trung nghiên cứu phương pháp giúp chuẩn bị ứng phó với các loại sóng thần bất thường xảy ra ở phía Tây Jakarta trong tháng này.
Trận sóng thần ngày 23/12 đã làm chết khoảng 430 người dọc theo bờ biển của eo biển Sunda, gây ra một năm động đất và sóng thần ở quần đảo rộng lớn, nằm trên vành đai lửa Thái Bình Dương đang hoạt động mạnh.
Người dân đã không nghe thấy tiếng còi báo động ở những thị trấn và bãi biển này để cảnh báo người dân trước khi sóng dữ ập vào bờ.
Các nhà địa chấn học và chính quyền cho biết một cơn bão đã gây ra sóng thần và khiến việc phát hiện sớm gần như không thể đưa ra thiết bị tại chỗ.
“Tuy nhiên, thảm họa lần này là một hồi chuông cảnh tỉnh để đẩy mạnh nghiên cứu về các tác nhân và sự chuẩn bị cho sóng thần”, các chuyên gia, những người đã tới Indonesia để điều tra những gì đã xảy ra cho biết.
“Indonesia đã chứng minh với các nước trên thế giới rằng rất nhiều nguyên do có thể gây ra sóng thần. Cần có nhiều nghiên cứu hơn về sự kiện ít có thể dự báo này” – Stephen Hicks, một nhà địa chấn học tại Đại học Southampton (Anh) cho biết.
Hầu hết các cơn sóng thần lớn kỷ lục xảy ra là do động đất. Nhưng lần này là một vụ phun trào của núi lửa Anak Krakatau đã khiến miệng núi lửa của nó sụp đổ một phần xuống biển khi thủy triều lên cao, gây ra sóng thần cao tới 5 mét ập vào các khu vực ven biển đông dân cư trên đảo Java và Sumatra.
Khi núi lửa phun trào, ước tính 180 triệu mét khối, hoặc khoảng hai phần ba hòn đảo núi lửa ít hơn 100 tuổi đã sụp đổ xuống biển.
Tuy nhiên, vụ phun trào đã không rung chuyển máy theo dõi địa chấn đáng kể và sự vắng mặt của các tín hiệu địa chấn thường liên quan đến sóng thần đã khiến Cơ quan địa vật lý Indonesia (BMKG) ban đầu cho rằng không có sóng thần.
Muhamad Sadly, người đứng đầu ngành địa vật lý tại BMKG sau đó nói với Reuters rằng các máy theo dõi thủy triều không có chức năng kích hoạt cảnh báo sóng thần từ các sự kiện không địa chấn.
Người đứng đầu Viện nghiên cứu thảm họa quốc tế Nhật Bản, Fumihiko Imamura nói với Reuters rằng ông cho rằng hệ thống cảnh báo hiện tại của Nhật Bản sẽ không phát hiện được sóng thần giống như ở eo biển Sunda.
“Chúng tôi vẫn trải qua một số rủi ro về vấn đề này ở Nhật Bản … bởi vì có 111 ngọn núi lửa đang hoạt động và công suất thấp để theo dõi các vụ phun trào tạo ra sóng thần”, ông cho biết ở Jakarta.
Hệ thống cảnh báo hỏng
Một số chuyên gia cho rằng có đủ thời gian để phát hiện ra một phần của trận sóng thần ở tuần trước trong 24 phút sau khi sóng ập vào đất liền sau lở đất ở Anak Krakatau.
“Nhưng một hệ thống cảnh báo sóng thần gồm các phao ở Indonesia được kết nối với cảm biến đáy biển đã không hoạt động được kể từ năm 2012, nguyên nhân được cho là do phá hoại, bỏ bê và thiếu vốn công”, các nhà chức trách cho biết.
“Thiếu hệ thống cảnh báo sớm là nguyên nhân trận sóng thần hôm 22/12 vừa qua không được phát hiện”, ông Sutopo Purwo Nugroho, phát ngôn viên của cơ quan thảm họa quốc gia Indonesia cho biết và nhấn mạnh 1.000 còi báo động sóng thần cần thiết trên khắp Indonesia tha vì chỉ có 56 chiếc.
“Những dấu hiệu cho thấy sóng thần chuẩn bị ập đến không được phát hiện, do đó, mọi người không có thời gian để sơ tán” – ông nhấn mạnh.
Sau khi Tổng thống Indonesia Joko Widodo yêu cầu BMKG mua các hệ thống cảnh báo sớm mới, cơ quan này cho biết họ sẽ lắp đặt 3 phao sóng thần trên các hòn đảo xung quanh Anak Krakatau.
Theo Nugroho, chi phí bao phủ cả nước ước tính khoảng 7 nghìn tỷ rupiah (tương đương 480,10 triệu USD). Khoản chi này gần tương đương với tổng ngân sách ứng phó thảm họa của Indonesia, 7,19 nghìn tỷ rupiah cho năm 2018.
Nhưng các chuyên gia khác cho biết ngay cả khi mạng lưới này hoạt động, việc ngăn chặn thảm họa vẫn sẽ rất khó khăn.
“Sóng thần rất là một trường hợp xấu nhất đối với bất kỳ dự báo nào về cảnh báo sóng thần rõ ràng: Thiếu một trận động đất rõ ràng để kích hoạt cảnh báo, nước cạn, đáy biển gồ ghề và gần bờ biển gần đó”, nhà nghiên cứu địa chấn Hicks nói.
Ông Renato Solidum, Giám đốc Viện nghiên cứu Núi lửa và Địa chấn Philippines cho biết các đợt núi lửa Ta Taal phun trào đã gây ra sóng thần trước đây ở hồ Taal xung quanh.
Ông nói với Reuters rằng những gì đã xảy ra ở Indonesia cho thấy sự cần thiết “nâng cao nhận thức và sự chuẩn bị”, liên quan đến hoạt động của núi lửa và khả năng kích hoạt sóng thần của núi lửa ở Philippines.
Theo Cơ quan thời tiết quốc gia Mỹ (NWS), Mỹ cũng đã hứng chịu nhiều cơn sóng thần do hoạt động của núi lửa, bao gồm ở Alaska, Hawaii và Washington.
Nâng cao nhận thức
Tại Indonesia đầu năm nay, một thảm họa động đất và sóng thần kép đã làm chết hơn 2.000 người trên đảo Sulawesi, trong khi ít nhất 500 người khác thiệt mạng do một trận động đất san phẳng phần lớn bờ biển phía Bắc của đảo Lombok.
Ở một quốc gia, theo dữ liệu của chính phủ, 62,4% dân số có nguy cơ bị động đất và 1,6% dân số bị đe dọa bởi sóng thần, hiện đang tập trung vào việc thiếu sự chuẩn bị.
“Công bố về khả năng có thể xảy ra của các thảm họa trong nước, tăng cường về nhận thức đối với thảm họa phải là một phần của chương trình giáo dục quốc gia”, Tổng thống Widodo nói với các phóng viên sau thảm họa sóng thần mới nhất.
Theo Ramdi Tualfredi, một giáo viên trung học may mắn sống sót sau thảm họa sóng thần mới đây cho rằng những thay đổi này không thể đến sớm.
Ông cũng nói với Reuters rằng người dân ở làng Cigondong của ông ở bờ biển phía Tây Java và gần Krakatau chưa bao giờ được diễn tập về an toàn hoặc sơ tán.
“Tôi chưa bao giờ được tập huấn về các bước an toàn” – ông nhấn mạnh.
Sóng thần – Wikipedia tiếng Việt
Sóng thần (tiếng Nhật: 津波 tsunami) là một loạt các đợt sóng tạo nên khi một thể tích lớn của nước đại dương bị chuyển dịch chớp nhoáng trên một quy mô lớn. Động đất cùng những dịch chuyển địa chất lớn bên trên hoặc bên dưới mặt nước, núi lửa phun và va chạm thiên thạch đều có khả năng gây ra sóng thần. Hậu quả tai hại của sóng thần có thể ở mức cực lớn, giết chết bằng nhấn chìm trong nước đến hàng trăm ngàn người trong vài giờ.
Thuật ngữ tsunami (sóng thần) bắt nguồn từ tiếng Nhật có nghĩa “bến” (津 tsu, âm Hán Việt: “tân”) và “sóng” (波 nami, “ba”). Thuật ngữ này do các ngư dân đặt ra dù lúc đó họ không biết nguyên do là sóng xuất phát ở ngoài xa khơi. Cơn sóng thần khởi phát từ dưới đáy biển sâu; khi còn ngoài xa khơi, sóng có biên độ (chiều cao sóng) khá nhỏ nhưng chiều dài của cơn sóng lên đến hàng trăm kilômét. Vì vậy khi ở xa bờ chúng ta khó nhận diện ra nó, mà chỉ cảm nhận là một cơn sóng cồn trải dài.
Ở Tây phương sóng thần trước kia từng được coi là sóng thuỷ triều (tiếng Anh: tidal wave) vì khi tiến vào bờ, sóng tác động như một đợt thuỷ triều mạnh dâng lên, khác hẳn loại sóng thường gặp ngoài biển tạo bởi gió. Tuy nhiên, vì không đúng với thực tế cho nên thuật ngữ này không còn dùng nữa.
Các trận sóng thần có thể hình thành khi đáy biển, đột ngột bị biến dạng theo chiều dọc, chiếm chỗ của lượng nước nằm trên nó. Những sự di chuyển lớn theo chiều dọc như vậy của vỏ Trái Đất có thể xảy ra tại các rìa mảng lục địa. Những trận động đất do nguyên nhân va chạm mảng đặc biệt hay tạo ra các cơn sóng thần. Khi một mảng đại dương va chạm với một mảng lục địa, đôi khi nó làm rìa mảng lục địa chuyển động xuống dưới. Cuối cùng, áp suất quá lớn tác dụng lên rìa mảng khiến nó nhảy giật lùi lại (snaps back) tạo ra các đợt sóng chấn động vào vỏ Trái Đất, khiến xảy ra cơn địa chấn dưới lòng biển, được gọi là động đất tại đáy biển.
Những vụ lở đất dưới đáy biển (thỉnh thoảng xảy ra vì nguyên nhân động đất) cũng như những vụ sụp đổ của núi lửa cũng có thể làm chấn động cột nước khiến trầm tích và đá trượt xuống theo sườn núi rơi xuống đáy biển. Tương tự như vậy, một vụ phun trào núi lửa mạnh dưới biển cũng có thể tung lên một cột nước để hình thành sóng thần. Các con sóng được hình thành khi khối lượng nước bị dịch chuyển vị trí chuyển động dưới ảnh hưởng của trọng lực để lấy lại thăng bằng và tỏa ra trên khắp đại dương như các gợn sóng trên mặt ao.
Trong thập kỷ 1950 người ta đã khám phá ra rằng những cơn sóng thần lớn có thể xuất hiện từ các vụ lở đất, hoạt động phun trào núi lửa và các vụ va chạm thiên thạch. Những hiện tượng đó khiến một lượng nước lớn nhanh chóng bị chuyển chỗ, khi năng lượng từ một thiên thạch hay một vụ nổ chuyển vào trong nước nơi xảy ra va chạm. Các cơn sóng thần với xuất hiện từ những nguyên nhân đó, khác với những trận sóng thần do động đất gây ra, thường nhanh chóng tan rã và hiếm khi lan tới những bờ biển quá xa vì diện tích xảy ra sự kiện nhỏ. Các hiện tượng đó có thể gây ra các cơn sóng địa chấn lớn chỉ trong một khu vực, như vụ lở đất ở Vịnh Lituya tạo ra một sóng nước ước tính tới 50–150 m và tràn tới độ cao 524 m trên các ngọn núi ở đó. Tuy nhiên, một vụ lở đất cực lớn có thể gây ra một trận sóng thần cực lớn gây ảnh hưởng trên toàn bộ đại dương.
Sóng thần diễn biến rất khác biệt tùy theo kiểu sóng: chúng chứa năng lượng cực lớn, lan truyền với tốc độ cao và có thể vượt khoảng cách lớn qua đại dương mà chỉ mất rất ít năng lượng. Một trận sóng thần có thể gây ra thiệt hại trên bờ biển cách hàng nghìn cây số nơi nó phát sinh, vì thế chúng ta có thể có nhiều tiếng đồng hồ chuẩn bị từ khi nó hình thành tới lúc ập vào một bờ biển, nó xuất hiện một thời gian khá dài sau khi sóng địa chấn hình thành từ nơi xảy ra sự kiện lan tới. Năng lượng trên mỗi mét dài trong sóng tỷ lệ với nghịch đảo của khoảng cách từ nguồn phát.[cần dẫn nguồn]
Thậm chí một trận sóng thần riêng biệt có thể liên quan tới một loạt các đợt sóng với những độ cao khác nhau. Ở vùng nước rộng, các cơn sóng thần có chu kỳ rất dài (thời gian để đợt sóng sau tới vị trí một điểm sau đợt sóng trước), từ nhiều phút tới nhiều giờ, và chiều dài sóng dài lên tới hàng trăm kilômét. Điều này rất khác biệt so với các con sóng hình thành từ gió bình thường trên mặt đại dương, chúng thường có chu kỳ khoảng 10 giây và chiều dài sóng 150 mét.
Chiều cao thực của một đợt sóng thần trên đại dương thường không tới một mét. Điều này khiến những người ở trên tàu giữa đại dương khó nhận ra chúng. Bởi vì chúng có chiều dài sóng lớn, năng lượng của một cơn sóng thần điều khiển toàn bộ cột nước, hướng nó xuống phía đáy biển. Các cơn sóng đại dương ở vùng nước sâu thường xuất hiện do chuyển động của nước tính từ bề mặt đến một độ sâu bằng một nửa chiều dài sóng. Điều này có nghĩa rằng sự di chuyển của sóng bề mặt đại dương chỉ đạt tới độ sâu khoảng 100 m hay ít hơn. Trái lại, những cơn sóng thần hoạt động như những con sóng vùng nước nông giữa biển khơi (bởi chiều dài của chúng ít nhất lớn gấp 20 lần chiều sâu nơi chúng hoạt động), bởi sự phân tán chuyển động của nước ít xảy ra nơi nước sâu.
Con sóng đi qua đại dương với tốc độ trung bình 500 dặm một giờ[1]. Khi tiến tới đất liền, đáy biển trở nên nông và con sóng không còn di chuyển nhanh được nữa, vì thế nó bắt đầu “dựng đứng lên”; phần phía trước con sóng bắt đầu dựng đứng và cao lên, và khoảng cách giữa các đợt sóng ngắn lại. Tuy một người ở ngoài đại dương có thể không nhận thấy dấu hiệu sóng thần, nhưng khi vào bờ nó có thể đạt chiều cao một tòa nhà sáu tầng hay hơn nữa. Quá trình dựng đứng lên này tương tự như khi ta vẩy một chiếc roi da. Khi sóng tiến từ phía cuối ra đầu roi, cùng một lượng năng lượng phân bố trong khối lượng vật liệu ngày càng nhỏ, khiến chuyển động trở nên mãnh liệt hơn. Càng đi vào đất liền, tốc độ di chuyển sẽ chậm lại nhưng ngọn sóng cao.
Một con sóng trở thành một con “sóng nước nông” khi tỷ lệ giữa độ sâu mặt nước và chiều dài sóng của nó rất nhỏ, và bởi vì sóng thần có chiều dài sóng rất lớn (hàng trăm kilômét), các cơn sóng thần hoạt động như những cơn sóng nước nông ngay bên ngoài đại dương. Những con sóng nước nông di chuyển với tốc độ bằng căn bậc hai của tích giữa gia tốc trọng trường (9.8 m/s2) và chiều sâu nước. Ví dụ, tại Thái Bình Dương, với độ sâu trung bình 4000 m, một cơn sóng thần di chuyển với tốc độ khoảng 200 m/s (720 km/h hay 450 dặm/giờ) và mất ít năng lượng, thậm chí đối với những khoảng cách lớn. Ở độ sâu 40 m, tốc độ sẽ là 20 m/s (khoảng 72 km/h hay 45 dặm/giờ), nhỏ hơn tốc độ trên đại dương nhưng rõ ràng con người không thể chạy nhanh hơn tốc độ này.
Sóng thần lan truyền từ nguồn phát (tâm chấn), vì thế những bờ biển trong vùng bị ảnh hưởng bởi chấn động thường lại khá an toàn. Tuy nhiên, các cơn sóng thần có thể gây nhiễu xạ xung quanh các mảng lục địa (như thể hiện trong hoạt hình này).
Đặc trưng riêng của điều kiện địa lý địa phương có thể dẫn tới hiện tượng triều giả hay sự hình thành các đợt sóng dừng, có thể gây thiệt hại lớn hơn trên bờ biển. Ví dụ, cơn sóng thần lan tới Hawaii ngày 1 tháng 4 năm 1946 có thời gian ngắt quãng mười lăm phút giữa các đợt sóng. Chu kỳ cộng hưởng tự nhiên của Vịnh Hilo là khoảng mười ba phút. Điều đó có nghĩa mỗi đợt sóng tiếp theo trùng pha với chuyển động của Vịnh Hilo, tạo ra một đợt triều giả trong vịnh. Vì thế, Hilo bị thiệt hại nặng nền nhất so với tất cả các địa điểm khác tại Hawaii, đợt sóng thần/triều giả có độ cao lên tới 14 m giết hại 159 người.
Sóng biển được chia làm ba loại, căn cứ vào độ sâu:
- Tầng nước sâu
- Tầng nước trung bình
- Tầng nước nông
Dù được tạo ra ở tầng nước sâu (khoảng 4000 m dưới mực nước biển), sóng thần được xem là sóng ở tầng nước nông. Khi sóng thần tiến vào tầng nước nông gần bờ, khoảng thời gian của nó không đổi, nhưng chiều dài sóng thì giảm liên tục, điều này làm cho nước tích tụ thành một mái vòm khổng lồ, gọi là hiệu ứng “bị cạn”.
Dấu hiệu của một đợt sóng thần sắp tới[sửa | sửa mã nguồn]
Những dấu hiệu sau đây thường báo trước một cơn sóng thần: [2]:
- Cảm thấy động đất. Nếu cảm thấy nền đất rung lắc mạnh đến mức không còn đứng vững được, thì nhiều khả năng sẽ xảy ra một trận sóng thần.
- Các bong bóng chứa khí gas nổi lên mặt nước làm ta có cảm giác như nước đang bị sôi.
- Nước trong sóng nóng bất thường.
- Nước có mùi trứng thối (khí hyđro sulfua) hay mùi xăng, dầu.
- Nước làm da bị mẩn ngứa.
- Nghe thấy một tiếng nổ như là:
- – tiếng máy nổ của máy bay phản lực
- – hay tiếng ồn của cánh quạt máy bay trực thăng, hay là tiếng huýt sáo.
- Biển lùi về sau một cách đáng chú ý.
- Mây đen vần vũ đầy trời.
- Vệt sáng đỏ ở đường chân trời.
- Khi sóng thần ập vào bờ, sẽ có tiếng gầm rú giống như chuyến tàu hỏa đang đến gần.
- Hàng triệu con chim hải âu bay ngược biển.
- Nhiều đất nước khi có sóng thần, thường hay có những tiếng còi cảnh báo rú lên.
|
Sóng thần không thể được dự đoán một cách hoàn toàn chính xác, nhưng có những dấu hiệu có thể báo trước một đợt sóng thần sắp xảy ra, và nhiều hệ thống đang được phát triển và được sử dụng để giảm thiểu những thiệt hại do sóng thần gây ra.
Ở những khoảnh khắc khi lưỡi đợt sóng thần là vùng lõm của nó, nước biển sẽ rút khỏi bờ với khoảng cách bằng nửa chu kỳ sóng trước khi đợt sóng tràn tới. Nếu đáy biển có độ nghiêng thấp, sự rút lui này có thể lên tới hàng trăm mét. Những người không nhận thức được về sự nguy hiểm có thể vẫn ở lại trên bãi biển vì tò mò, hay để nhặt những con cá trên đáy biển lúc ấy đã trơ ra.
Ở những khoảnh khắc khi lưỡi sóng của cơn sóng thần đạt mức đỉnh lần thứ nhất, những đợt sóng tiếp theo có thể khiến nước dâng cao hơn. Một lần nữa, việc hiểu biết về hoạt động của sóng thần rất quan trọng, để có thể nhận thức rằng khi mực nước rút xuống lần đầu tiên, nguy hiểm chưa hề qua. Ở những vùng bờ biển có độ cao thấp, một trận động đất mạnh là dấu hiệu cảnh báo chính rằng một cơn sóng thần có thể đã được tạo ra.
Những vùng có nguy cơ sóng thần cao có thể sử dụng những hệ thống cảnh báo sóng thần để xác định và cảnh báo người dân trước khi sóng đi tới đất liền. Tại một số cộng đồng ở bờ biển phía tây nước Mỹ, vốn có nguy cơ đối mặt với các cơn sóng thần Thái Bình Dương, những dấu hiệu cảnh báo hướng dẫn người dân đường thoát hiểm khi một cơn sóng thần tràn tới. Các mô hình trên máy tính có thể dự đoán phỏng chừng khoảng thời gian tràn tới và sức mạnh của sóng thần dựa trên thông tin về sự kiện gây ra nó và hình dạng của đáy biển (bathymetry) và vùng đất bờ biển theo địa hình học.[3]
Một trong những dấu hiệu cảnh báo sớm nhất là từ những loài động vật ở gần. Nhiều loài vật cảm giác được sự nguy hiểm và bỏ chạy lên vùng đất cao trước khi những con sóng tràn tới. Vụ động đất Lisbon là trường hợp đầu tiên được ghi lại về hiện tượng đó tại châu Âu. Hiện tượng này cũng đã được nhận thấy tại Sri Lanka trong trận Động đất Ấn Độ Dương 2004 ([4]). Một số nhà khoa học có thể suy luận rằng các loài vật có thể có một khả năng cảm nhận được sóng hạ âm (sóng Rayleigh) từ một trận động đất nhiều phút hay nhiều giờ trước khi một cơn sóng thần tấn công vào bờ (Kenneally, [5]).
Trong khi vẫn chưa có khả năng ngăn chặn sóng thần, tại một số quốc gia thường phải hứng chịu thảm họa thiên nhiên này, một số biện pháp đã được tiến hành nhằm giảm thiệt hại do sóng thần gây ra. Nhật Bản đã áp dụng một chương trình lớn xây dựng các bức tường chắn sóng thần với chiều cao lên tới 4.5 m (13.5 ft) trước những vùng bờ biển nhiều dân cư sinh sống. Những nơi khác đã xây dựng các cửa cống và kênh để dẫn dòng nước từ những cơn sóng thần đi hướng khác. Tuy nhiên, hiệu quả của chúng vẫn còn là một vấn đề tranh cãi, bởi vì các cơn sóng thần thường cao hơn tường chắn. Ví dụ, đợt sóng thần tràn vào đảo Hokkaido ngày 12 tháng 7 năm 1993 tạo ra những đợt sóng cao tới 30 m (100 ft) – tương đương một tòa nhà 10 tầng. Thị trấn cảng Aonae đã được trang bị một bức tường chắn sóng thần bao kín xung quanh, nhưng các cơn sóng đã tràn qua tường và phá hủy toàn bộ cấu trúc xây dựng bằng gỗ trong vùng. Bức tường có thể có tác dụng trong việc làm chậm và giảm độ cao sóng thần nhưng nó không ngăn cản được tính phá hủy và gây thiệt hại nhân mạng của sóng thần.
Những hiệu ứng của một cơn sóng thần có thể giảm bớt nhờ những yếu tố thiên nhiên như cây trồng dọc bờ biển. Một số vị trí trên đường đi của cơn sóng thần Ấn Độ Dương 2004 hầu như không bị thiệt hại gì nhờ năng lượng sóng thần đã bị một dải cây như dừa và đước hấp thụ. Một ví dụ khác, làng Naluvedapathy tại vùng Tamil Nadu Ấn Độ bị thiệt hại rất ít khi những con sóng thần tan vỡ trong khu rừng 80.244 cây được trồng dọc bờ biển năm 2002 để được ghi tên vào Sách kỷ lục Guinness. [6] Những nhà môi trường đã đề xuất việc trồng cây dọc theo những vùng bờ biển có nguy cơ sóng thần cao. Tuy có thể mất vài năm để cây lớn đạt tới kích cỡ cần thiết, những công cuộc trồng rừng như vậy có thể mang lại những công cụ hữu hiệu, rẻ tiền cũng như có tác dụng lâu dài trong việc ngăn chặn sóng thần hơn những biện pháp đắt tiền, gây hại đến môi trường như các bức tường chắn sóng.
a. Khi đang ở trên biển, ven biển:
– Khi đang ở trên tàu thuyền trên biển, ven biển mà nhận được tin cảnh báo sóng thần thì không nên cho tàu thuyền trở về cảng, mà nên di chuyển tàu thuyền đến những vùng nước sâu ít nhất là trên 150m, vì sóng thần có thể gây ra sự thay đổi nhanh chóng mực nước biển và tạo ra những dòng chảy nguy hiểm ở cảng và bến tàu;
– Khi tàu thuyền còn neo đậu trong bờ mà nhận được tin cảnh báo sóng thần thì chủ tàu thuyền có thể đưa tàu thuyền của mình ra biển nếu có đủ thời gian và được sự thông báo của chính quyền, cơ quan chức năng;
– Không được ở lại trên tàu thuyền neo đậu tại bến cảng vì sóng thần có mức phá hoại rất lớn.
b. Khi ở trên đất liền:
– Đang ở khu vực bãi biển: khi nhận được tin sóng thần phải ngay lập tức chạy đến nơi an toàn ở các bãi đất cao hoặc xa bờ biển từ 500m trở lên;
– Đang ở nơi đông người: khi nhận được tin sóng thần phải ngay lập tức báo với những người khác cùng chạy đến nơi an toàn ở các bãi đất cao hoặc xa bờ biển từ 500m trở lên, đặc biệt là giúp đỡ trẻ em, người già, phụ nữ có thai đi sơ tán;
– Đang ở trong nhà trệt, nhà thấp tầng: trong phạm vi dưới 500m so với bờ biển phải sơ tán vào sâu trên đất liền, chỉ mang theo các vật dụng, tài sản, giấy tờ quan trọng khi sơ tán; Đang ở trong nhà cao tầng: phải di chuyển lên các tầng cao, không ở lại tầng 1 cho đến tầng 3; mở trống các cửa ở các tầng thấp để hạn chế sự tác động của sóng.Đang đi trên đường: không được đi ra hướng bờ biển.
Nguồn: Sóng thần và một số biện pháp phòng tránh, ứng phó
- Xem thêm Danh sách những trận sóng thần lịch sử theo số lượng thiệt hại nhân mạng.
Sóng thần xảy ra thường xuyên nhất ở Thái Bình Dương nhưng là một hiện tượng toàn cầu; sóng thần có thể xảy ra ở bất kì nơi nào có khối nước lớn, bao gồm cả những hồ nằm trong đất liền, có khả năng xảy ra sự dịch chuyển của khối đất bên dưới. Những cơn sóng thần nhỏ, không gây thiệt hại và không thể nhận biết được nếu không có thiết bị chuyên môn, xảy ra thường xuyên như kết quả của những trận động đất nhẹ và các địa chấn khác.
Trận sóng thần ở Đảo Vancouver, Canada năm 1700[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 26 tháng 1, trận động đất Cascadia, một trong những trận động đất mạnh nhất trong lịch sử, làm gián đoạn Cascadia Subduction Zone offshore từ đảo Vancouver đến bắc California, tạo nên một cơn sóng thần được ghi lại trong lịch sử Nhật Bản cũng như trong lịch sử truyền khẩu của người thổ dân châu Mỹ.
Trận sóng thần ở Lisboa, Bồ Đào Nha năm 1755[sửa | sửa mã nguồn]
Hàng vạn người sống sót qua trận động đất ở Lisboa năm 1755 đã thiệt mạng trong đợt sóng thần xảy ra sau đó nửa giờ. Nhiều cư dân thành phố chạy ra bờ biển, tin rằng nơi này có thể tránh khỏi các đám cháy và mảnh vỡ do động đất. Trước khi cơn sóng thần ập vào cảng, nước rút rất nhanh, để lộ những hàng hóa bị rơi xuống biển và những chiếc tàu đắm bị lãng quên.
Động đất, sóng thần và hỏa hoạn sau đó đã giết chết hơn một phần ba dân số Lisboa trước trận động đất. Những văn lịch sử ghi chép lại các cuộc thám hiểm của Vasco da Gama và những nhà hàng hải trước đó bị mất, rất nhiều ngôi nhà bị phá hủy (gồm cả đa số những kiến trúc Manueline Bồ Đào Nha). Những người châu Âu ở thế kỷ 18 đã tìm cách giải thích thảm họa này trong tôn giáo và các hệ thống đức tin lý trí. Các nhà triết học Thời khai sáng, nổi tiếng nhất là Voltaire, đã viết về sự kiện này. Quan niệm triết học về sự siêu phàm, như được nhà triết học Immanuel Kant miêu tả trong cuốn Beobachtungen über das Gefühl des Schönen und Erhabenen (Những quan sát về Cảm giác của Cái đẹp và sự Siêu phàm), có một phần cảm hứng trong nỗ lực tìm hiểu tầm cỡ của trận động đất và sóng thần Lisboa.
1883 – Vụ nổ phun trào Krakatoa[sửa | sửa mã nguồn]
Hòn đảo núi lửa Krakatoa ở Indonesia đã nổ tung với sức mạnh hủy diệt năm 1883, thổi tung một phần buồng magma dưới chân nó khiến vùng đất nằm phía trên đó và đáy biển sụp đổ. Một loạt những cơn sóng thần đã hình thành sau vụ sụp đổ, một số cơn đạt tới độ cao hơn 40 mét trên mực nước biển. Các cơn sóng thần được quan sát thấy trên khắp Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, bờ biển phía tây nước Mỹ, Nam Mỹ và thậm chí xa tới cả Kênh Anh Quốc. Ở bờ biển phía đối diện tại Java và Sumatra nước lụt tràn sâu nhiều dặm vào trong bờ gây ra thiệt hại to lớn về nhân mạng tới mức một vùng dân cư đã không bao giờ được khôi phục và trở thành rừng rậm và hiện là khu dự trữ sinh quyển Ujung Kulon
Vụ nổ Halifax xảy ra ngày thứ Năm, 6 tháng 12 năm 1917 lúc 9:04:35 sáng giờ địa phương tại Halifax, Nova Scotia ở Canada, khi chiếc tàu chở vũ khí cho Chiến tranh thế giới thứ nhất Mont-Blanc của Pháp va chạm với chiếc tàu thủy Na Uy Imo được thuê chở đồ trợ cấp cho Bỉ. Hậu quả của vụ va chạm làm chiếc Mont-Blanc bốc cháy và nổ tung. Vụ nổ gây ra một cơn sóng thần, và một làn sóng sung kích trong không khí.
1929 – Trận sóng thần Newfoundland[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 18 tháng 11 năm 1929, một trận động đất mạnh 7.2 độ xảy ra bên dưới Dốc Laurentian tại Grand Banks. Chấn động được cảm nhận thấy tại khắp các tỉnh bang vùng Atlantic ở Canada và đến tận Ottawa ở phía tây cũng như Claymont, Delaware ở phía nam. Hậu quả là sau 2½ giờ một cơn sóng thần cao hơn 7 mét tràn vào bán đảo Burin trên bờ biển phía nam Newfoundland, 28 người thuộc nhiều cộng đồng dân cư đã thiệt mạng.
1946 – Trận sóng thần Thái Bình Dương[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 1 tháng 4 trận sóng thần do vụ Động đất quần đảo Aleut gây ra giết hại 165 người tại Hawaii và Alaska dẫn tới việc hình thành hệ thống cảnh báo sóng thần (cụ thể là Trung tâm Cảnh báo sóng thần Thái Bình Dương), được thành lập năm 1949 giám sát cho các quốc gia vùng Thái Bình Dương. Tại Hawaii cơn sóng thần được gọi là “Sóng thần Ngày Nói dối” vì mọi người đã tin rằng cảnh báo sóng thần là một trò đùa Ngày Nói dối.
1960 – Trận sóng thần Chile[sửa | sửa mã nguồn]
Trận Động đất Lớn Chile với cường độ 9.5 độ Richter là trận động đất mạnh nhất từng được ghi lại. Tâm chấn nằm ngoài khơi Trung Nam Chile, gây ra một trong những trận sóng thần có sức tàn phá lớn nhất thế kỷ 20.
Cơn sóng trải dài khắp Thái Bình Dương, với những con sóng đo được tới 25 mét. Đợt sóng đầu tiên ập tới Hilo, Hawaii sau khoảng 14.8 giờ từ khi nó được hình thành ngoài khơi Trung Nam Chile.
Đợt sóng cao nhất tại Vịnh Hilo đo được khoảng 10,7 m (35 ft.). 61 người thiệt mạng với nguyên nhân được cho là do không để ý tới những hồi còi báo động. Khi sóng thần tràn vào Onagawa, Nhật Bản, 22 giờ sau trận động đất, chiều cao sóng đạt 3 mét trên mực thủy triều đang dâng cao. Số lượng người chết do vụ động đất và cơn sóng thần sau đó được ước lượng trong khoảng 490 tới 2.290.
1963 – Thảm họa Đập Vajont[sửa | sửa mã nguồn]
Hồ chứa nước phía sau Đập Vajont phía bắc Ý đã bị một trận lở đất lớn lao xuống. Một cơn sóng thần phát sinh quét qua đỉnh đập (nhưng không làm vỡ nó) lao xuống thung lũng bên dưới. Gần 2.000 người thiệt mạng.
1964 – Trận sóng thần Ngày thứ Sáu Tuần thánh[sửa | sửa mã nguồn]
Sau Trận động đất Ngày thứ Sáu Tuần thánh cường độ 9.2 độ, một cơn sóng thần đã tấn công Alaska, British Columbia, California và các thị trấn ven bờ biển tây bắc Thái Bình Dương, khiến 121 người chết. Những cơn sóng cao tới 6 mét, và giết hại 6 người ở Crescent City, California.
1976 – Trận sóng thần Vịnh Moro[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 16 tháng 8 năm 1976 lúc 12:11 sáng, một trận động đất 7.9 độ xảy ra ở đảo Mindanao, Philippines. Nó tạo ra một cơn sóng thần tàn phá hơn 700 km bờ biển quanh Vịnh Moro ở phía Bắc biển Celebes. Ước lượng số người chết trong thảm họa này lên tới 5.000 người, 2.200 người mất tích hay được cho đã chết, hơn 9.500 người bị thương và tổng cộng 93.500 trở thành vô gia cư. Nó cũng đã tàn phá các thành phố và thị trấn như Thành phố Pagadian, Zamboanga del Sur, Thành phố Zamboanga, Basilan, Sulu, Sultan Kudarat, Maguindanao, Thành phố Cotabato, Lanao del Sur và Lanao del Norte.
1979 – Trận sóng thần Tumaco[sửa | sửa mã nguồn]
Một trận động đất mạnh 7.9 độ đã xảy ra ngày 12 tháng 12 năm 1979 lúc 7:59:4.3 (UTC) dọc theo bờ biển Thái Bình Dương của Colombia và Ecuador. Trận động đất và cơn sóng thần do nó gây ra đã phá hủy ít nhất năm làng cá và cái chết của hàng trăm người tại tỉnh Nariño Colombia. Chấn động được cảm nhận thấy tại Bogotá, Cali, Popayán, Buenaventura và nhiều thành phố khác tại Colombia và tại Guayaquil, Esmeraldas, Quito cũng như nhiều vùng khác tại Ecuador. Khi Sóng thần Tumaco tràn lên bờ, nó phá hủy trầm trọng thành phố Tumaco, cũng như các thị trấn El Charco, San Juan, Mosquera và Salahonda trên bờ biển Thái Bình Dương của Colombia. Tổng số nạn nhân trong thảm họa này là 259 người chết, 798 người bị thương 95 người mất tích hoặc được cho là đã chết.
1993 – Trận sóng thần Okushiri[sửa | sửa mã nguồn]
Một trận sóng thần có sức tàn phá lớn đã xảy ra ngoài khơi Hokkaido Nhật Bản sau một trận động đất ngày 12 tháng 7 năm 1993. Kết quả, 202 người trên hòn đảo nhỏ Okushiri thiệt mạng và hàng trăm người mất tích hay bị thương. Thêm nữa, hàng trăm triệu chú chim cảnh, mèo và chó cũng thiệt mạng.
2004 – Trận sóng thần Ấn Độ Dương[sửa | sửa mã nguồn]
Trận động đất Ấn Độ Dương 2004, với cường độ được ước lượng khoảng từ 8.90-9.30 trên thang độ Richter (cường độ hiện vẫn chưa được thống nhất, nhưng đa số cho rằng là lớn hơn 9.0 Richter), đã gây ra một loạt những cơn s
Ít nhất 222 người chết trong trận sóng thần ở Indonesia- VnEconomy
Một trận sóng thần đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 222 người và làm hàng trăm người khác bị thương trên hai đảo Java và Sumatra của Indonesia. Thảm họa này xảy ra sau một trận lở đất dưới biển được cho là có nguyên nhân từ đợt phun trào của núi lửa Anak Krakatau.
Theo tin từ Reuters, gần như không có bất kỳ một dấu hiệu cảnh báo nào trước khi trận sóng thần ập đến vào đêm ngày thứ Bảy theo giờ địa phương. Hàng trăm ngôi nhà đã bị hư hỏng nặng, buộc hàng nghìn cư dân phải đi sơ tán. Đến buổi chiều ngày Chủ nhật, nhà chức trách cho biết số lượng người chết đã lên tới con số 222, 843 người bị thương và 28 người mất tích.
Nằm trên khu vực “Vành đai lửa” của Thái Bình Dương, Indonesia năm nay đã chứng kiến con số người chết vì thiên tai lớn nhất trong một thập kỷ. Trước trận sóng thần này, trận động đất san phẳng nhiều khu vực trên đảo du lịch Lombok vào tháng 7-8 và thảm họa kép động đất-sóng thần trên đảo Sulawesi vào tháng 9 đã khiến tổng cộng hơn 2.000 thiệt mạng.
Truyền thông Indonesia cho biết cư dân ở khu vực ven biển nói rằng họ không nhìn thấy hay cảm thấy dấu hiệu nào báo trước sắp có sóng thần vào đêm ngày thứ Bảy, chẳng hạn mức nước tụt xuống hay động đất. Thay vào đó, những con sóng lớn với độ cao 2-3 mét bất ngờ ập vào bờ.
Thời điểm xảy ra trận sóng thần này, ngay trước lễ Giáng sinh, khiến nhiều người nhớ đến trận sóng thần xảy ra sau một trận động đất trên Ấn Độ Dương hôm 26/12/2004 khiến 226.000 người ở 14 quốc gia thiệt mạng, trong đó có 120.000 người ở Indonesia.
Nhà chức trách cảnh báo cư dân và du khách tại các khu vực quanh eo biển Sunda tránh ra bãi biển và dự kiến duy trì cảnh báo sóng lớn cho tới ngày 25/12. Cơ quan chức năng hiện đang nỗ lực xác định nguyên nhân của thảm họa, đồng thời không loại trừ khả năng thảm họa có thể lặp lại. Số người chết được dự báo có thể còn tăng lên.
Tỉnh Banten thuộc phía Tây của Java, đảo đông dân nhất của Indonesia, là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của trận sóng thần này.
Nằm giữa hai đảo Java và Sumatra, núi lửa Anak Krakatau đã phun tro bụi và nham thạch suốt nhiều tháng nay. Ngọn núi lửa này tiếp tục phun trào vào lúc 9h tối ngày thứ Bảy, và sóng thần xảy ra nửa giờ đồng hồ sau đó, theo cơ quan chức năng.
Vào năm 1883, hàng loạt trận sóng thần đã xảy ra sau khi núi lửa Anak Krakatau phun trào, khiến hơn 36.000 người thiệt mạng.
Dưới đây là một số hình ảnh về những gì còn sót lại sau trận sóng thần vào cuối tuần vừa rồi ở Indonesia:
Động đất mạnh, cảnh báo sóng thần tại Nhật Bản
NDĐT – Theo Cơ quan khí tượng Nhật Bản, một trận động đất mạnh 6,8 độ vừa làm rung chuyển khu vực ngoài khơi bờ biển của tỉnh Yamagata, phía bắc Nhật Bản với độ rung lắc đủ mạnh để phá hủy các tòa nhà và kéo theo cảnh báo sóng thần từ 0,2 đến một mét.
Đài truyền hình Nhật Bản NHK đưa tin, các nhà chức trách không thể liên lạc qua điện thoại với các khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của trận động đất nhất nhưng hiện chưa có báo cáo về thương vong hay thiệt hại do trận động đất gây ra.
Cơ quan khí tượng Nhật Bản cho biết, động đất xảy ra lúc 22 giờ 22 phút ngày 18-6 (giờ địa phương), với tâm chấn ở độ sâu khoảng 10 km ngoài khơi tỉnh Yamagata. Trong khi đó, Cơ quan thăm dò địa chất Mỹ (USGS) đưa ra cường độ của trận động đất là 6,5 độ và tâm chấn nằm cách đảo Honshu 85 km.
Các nhà chức trách Nhật Bản cảnh báo, sóng thần cao tới một mét có thể xuất hiện dọc bờ biển của các tỉnh Yamagata, Niigata và Ishikawa.
Để bảo đảm an toàn, Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản thông báo đã ngừng một phần hoạt động của dịch vụ tàu cao tốc Shinkansen nối thủ đô Tokyo với hai tỉnh Aomori và Niigata.
Theo Công ty Điện lực Tohoku, trận động đất đã gây ra tình trạng mất điện tại nhiều khu vực ở phía bắc Nhật Bản. Khoảng 5.900 hộ gia đình tại tỉnh Yamagata và 3.200 hộ gia đình tại tỉnh Niigata đang sống trong cảnh mất điện. Các công ty dịch vụ công cộng trong khu vực chịu ảnh hưởng của trận động đất xác nhận, không có bất thường tại các nhà máy điện hạt nhân của họ, trong đó có nhà máy Fukushima Dai-ichi.
Xe kinh doanh vận tải có thể đổi biển sang màu vàng cam
Theo Trung tá Phạm Việt Công – Trưởng phòng Đăng ký xe (Cục Cảnh sát giao thông, Bộ Công an), việc thay đổi màu biển số của xe kinh doanh vận tải như xe khách, xe tải, taxi truyền thống, taxi công nghệ là để cụ thể hoá theo Nghị quyết 12/2019 của Chính phủ. Chính phủ giao cần phân định rõ đối tượng kinh doanh vận tải để thuận lợi trong quá trình quản lý nhà nước và phân biệt với các phương tiện khác.
Trung tá Phạm Việt Công. |
Việc thay đổi này giúp lực lượng chức năng dễ phát hiện, phân biệt xe kinh doanh vận tải trên đường, đồng thời thể hiện sự bình đẳng giữa loại hình taxi truyền thống và taxi công nghệ.
Nếu được thông qua, việc cấp biển số màu mới sẽ bắt đầu từ tháng 1/2020 cho đến hết tháng 12/2020. Các trường hợp quá thời gian này, chủ xe, doanh nghiệp không đổi biển sẽ bị xử phạt theo quy định của Nghị định 46. Với các xe đã có biển số, tài xế không cần mang xe đến trụ sở đăng ký mà chỉ cần điền tờ khai và trong 7 ngày Phòng Cảnh sát giao thông sẽ cấp biển số có màu mới.
Xe của một hãng taxi hoạt động ở TP. Hà Nội. |
Đại diện Cục Cảnh sát giao thông cho biết, việc đổi màu biển số này đã có những đánh giá tác động cụ thể và được cân nhắc kỹ. Theo quy định hiện hành, chi phí đổi màu biển số là 150.000 đồng, qua đó sẽ phát sinh chi phí khoảng 150 tỉ đồng cho gần 1 triệu phương tiện hoạt động kinh doanh vận tải hiện tại.
Tuy nhiên, để khách quan và đảm bảo sự công bằng trong quản lý, phân biệt các phương tiện trong hoạt động kinh doanh, đơn vị đưa ra để lấy ý kiến rộng rãi trước khi ban hành. Việc lấy ý kiến diễn ra trong một tháng, từ đầu tháng 11 cho đến hết tháng 12/2019 và thông tư sẽ có hiệu lực vào đầu năm 2020.
Lo sợ có sóng thần sau động đất tại Indonesia
Giới chức Indonesia thúc giục người dân sống gần bờ biển hãy chuyển tới nơi cao hơn, sau khi xảy ra một trận động đất mạnh ở ngoài khơi đảo Java.
Các quan chức nói trận động đất mà Mỹ theo dõi và đo được là mạnh 6.9 độ Richter có khả năng sẽ tạo ra một trận sóng thần.
California có thể có thêm các trận động đất mới
Indonesia: sắp ngừng tìm kiếm nạn nhân sóng thần
Động đất Indonesia: 14 người chết ở đảo Lombok
Trận động đất được ghi nhận xảy ra ở vị trí sâu 52,8 km vào lúc 19:03 giờ địa phương (12:03 GMT).
Tại nhiều thành phố, người ta có thể cảm nhận được các cơn dư chấn, kể cả tại thủ đô Jakarta. Hiện chưa có báo cáo về mức độ thiệt hại về người và của.
“Bộ đèn chùm trong căn hộ của tôi rung lắc, tôi chạy ra từ tầng 19,” một nhân chứng có tên là Elisa, 50 tuổi, nói với hãng tin AFP.
“Những người khác cũng chạy. Cảm thấy rung lắc rất mạnh, và tôi rất sợ hãi.”
Indonesia có lịch sử thường xuyên xảy ra động đất và sóng thần. Hồi tháng Chín năm ngoái, hơn 2.000 người đã thiệt mạng tại đảo Sulawesi do thiên tai.
Trận sóng thần Ấn Độ Dương hồi 2004 đã giết chết 170 ngàn người trên đảo Sumatra của Indonesia sau khi có trận động đất mạnh 9.1 độ Richter.