• HOME
    • Facebook
    • Instagram
    • Youtube
  • CÔNG TRÌNH
  • Leaf ‘stories
  • About us
  • LEAF Furniture Talks !
    • FOR YOU
    • Retail
    0.00 ₫(0 items)
    • HOME
      • Facebook
      • Instagram
      • Youtube
    • CÔNG TRÌNH
    • Leaf ‘stories
    • About us
    • LEAF Furniture Talks !
      • FOR YOU
      • Retail

    Table of Contents

      • GIẢM TRIỂN VỌNG TĂNG TRƯỞNG NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI 2020 – TẠI SAO?
      • Thương mại Mỹ – Trung, căng thẳng công nghệ và Brexit
      • Rủi ro gia tăng
      • Khủng hoảng tài chính y tế đe dọa các nước đang phát triển
      • Các nước đang phát triển đối mặt với khó khăn hơn
      • TTWTO VCCI – (Tin tức) 100 nước đang phát triển muốn xong đàm phán Doha
      • Hàn Quốc quyết định từ bỏ vị thế nước đang phát triển tại WTO – Đài Phát thanh và Truyền hình Đồng Tháp
      • Các nước đang phát triển châu Á: Làm gì để chuyển dịch sang nhóm thu nhập cao?
      • Điều gì tiếp theo cho các thị trường đang phát triển?
    • Bốn cơ hội cho các thị trường đang phát triển
      • Trung Quốc vẫn là nước đang phát triển lớn nhất thế giới

    GIẢM TRIỂN VỌNG TĂNG TRƯỞNG NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI 2020 – TẠI SAO?

    Trong bản cập nhật mới nhất Triển vọng kinh tế thế giới (World Economic Outlook) của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), chúng ta đang điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng toàn cầu, khi chỉ còn 3,2% vào năm 2019 và 3,5% vào năm 2020. Điều này cũng phản ánh những dự báo tiêu cực cho sự tăng trưởng ở thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển bù đắp những bất ngờ tích cực ở một số nền kinh tế tiên tiến.

    Tăng trưởng dự kiến ​​sẽ cải thiện từ năm 2019 đến 2020. Tuy nhiên, gần 70% mức tăng phụ thuộc vào sự cải thiện hiệu suất tăng trưởng ở thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển và do đó có độ chắc chắn, ổn định là không cao.

    Thương mại Mỹ – Trung, căng thẳng công nghệ và Brexit

    Tăng trưởng toàn cầu được dự báo là chậm chạp và bấp bênh, nhưng nó không phải theo cách này bởi vì một số nguyên nhân là tự gây ra. Sự năng động trong nền kinh tế toàn cầu đang bị đè nặng bởi sự bất ổn chính sách kéo dài khi căng thẳng thương mại vẫn tăng cao bất chấp thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung gần đây, căng thẳng công nghệ đã nổ ra đe dọa chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu, và triển vọng của Brexit không đạt thỏa thuận đã tăng lên.

    Hậu quả tiêu cực của sự không chắc chắn của chính sách có thể thấy rõ trong các xu hướng phân kỳ giữa lĩnh vực sản xuất và dịch vụ và sự yếu kém trong thương mại toàn cầu. Các chỉ số quản lý mua hàng sản xuất tiếp tục giảm cùng với tâm lý kinh doanh xấu đi khi các doanh nghiệp ngừng đầu tư trước sự không chắc chắn cao. Tăng trưởng thương mại toàn cầu, vốn đi sát với đầu tư, đã chậm lại đáng kể đến 0,5% (so với cùng kỳ) trong quý đầu tiên của năm 2019, đây là tốc độ chậm nhất kể từ năm 2012. Mặt khác, ngành dịch vụ đang nắm giữ và tâm lý người tiêu dùng rất mạnh, khi tỷ lệ thất nghiệp chạm mức thấp kỷ lục.

    Trong số các nền kinh tế tiên tiến, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Vương quốc Anh và khu vực đồng euro đã tăng trưởng nhanh hơn dự kiến ​​trong quý đầu tiên của năm 2019. Tuy nhiên, một số yếu tố đằng sau điều này như sự tích tụ hàng tồn kho nhiều hơn là tạm thời và đà tăng trưởng trong tương lai dự kiến ​​sẽ yếu hơn, đặc biệt là đối với các nước phụ thuộc vào nhu cầu bên ngoài. Nhờ có sự điều chỉnh tăng quý đầu tiên, đặc biệt là đối với Hoa Kỳ, chúng ta  đang tăng dự báo cho các nền kinh tế tiên tiến một chút, lên 0,1 điểm phần trăm, lên 1,9% cho năm 2019. Trong tương lai, tăng trưởng được dự báo sẽ chậm lại tới 1,7%, do tác động của kích thích tài khóa giảm dần ở Hoa Kỳ và tăng trưởng năng suất yếu và nhân khẩu học già nua làm giảm triển vọng dài hạn cho các nền kinh tế tiên tiến.

    Tại các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, tăng trưởng đang được điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm trong năm 2019 xuống còn 4,1% và 0,1 điểm phần trăm cho năm 2020 xuống còn 4,7%. Ở Trung Quốc, một phần lí do ở mức thuế cao hơn do Hoa Kỳ áp đặt vào tháng 5, ở Ấn Độ và Brazil phản ánh do nhu cầu nội địa yếu hơn dự kiến.

    Đối với các nhà xuất khẩu hàng hóa, sự gián đoạn nguồn cung, như ở Nga và Chile, và các lệnh trừng phạt đối với Iran, đã dẫn đến sự điều chỉnh giảm mặc dù giá dầu tăng mạnh trong thời gian ngắn. Sự phục hồi dự kiến ​​tăng trưởng giữa năm 2019 và 2020 tại thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển phụ thuộc vào kết quả tăng trưởng được cải thiện ở các nền kinh tế căng thẳng như Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Venezuela, do đó có sự không chắc chắn đáng kể.

    Các điều kiện tài chính ở Hoa Kỳ và khu vực đồng euro đã giảm bớt, vì Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ và Châu Âu một ngân hàng trung ương đã thông qua một lập trường chính sách tiền tệ thích hợp hơn. Thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển đã được hưởng lợi từ việc nới lỏng tiền tệ ở các nền kinh tế lớn nhưng cũng phải đối mặt với tâm lý rủi ro không ổn định gắn liền với căng thẳng thương mại. Các nước đang phát triển có thu nhập thấp trước đây nhận được dòng vốn đầu tư trực tiếp ổn định chủ yếu ổn định hiện nay nhận được dòng vốn đầu tư biến động đáng kể, vì việc tìm kiếm lợi suất trong môi trường lãi suất thấp đã đến các thị trường biên giới.

    Rủi ro gia tăng

    Một rủi ro lớn đối với triển vọng vẫn là sự leo thang căng thẳng thương mại và công nghệ có thể phá vỡ đáng kể chuỗi cung ứng toàn cầu. Hiệu ứng kết hợp của thuế quan áp đặt vào năm ngoái và thuế quan tiềm năng dự kiến ​​vào tháng 5 giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể làm giảm mức GDP toàn cầu vào năm 2020 xuống 0,5%. Hơn nữa, một tình trạng tài chính bất ngờ và tồi tệ hơn có thể làm lộ ra các lỗ hổng tài chính được xây dựng qua nhiều năm với lãi suất thấp, trong khi áp lực khử trùng có thể dẫn đến khó khăn trong việc phục vụ nợ cho người vay. Những rủi ro đáng kể khác bao gồm sự chậm lại bất ngờ ở Trung Quốc, thiếu sự phục hồi trong khu vực đồng euro, Brexit không có thỏa thuận và leo thang căng thẳng địa chính trị.

    Với sự tăng trưởng toàn cầu bị khuất phục và rủi ro giảm chi phối triển vọng, nền kinh tế toàn cầu vẫn ở một thời điểm khó khăn. Do đó, điều cần thiết là thuế quan không được sử dụng để nhắm mục tiêu cân bằng thương mại song phương hoặc như một công cụ có mục đích chung để giải quyết các bất đồng quốc tế. Để giúp giải quyết xung đột, hệ thống thương mại đa phương dựa trên các quy tắc cần được tăng cường và hiện đại hóa để bao gồm các lĩnh vực như dịch vụ kỹ thuật số, trợ cấp và chuyển giao công nghệ.

    Cuối cùng, nhu cầu hợp tác toàn cầu lớn hơn bao giờ hết. Ngoài việc giải quyết căng thẳng thương mại và công nghệ, các quốc gia cần hợp tác để giải quyết các vấn đề lớn như biến đổi khí hậu, thuế quốc tế, tham nhũng, an ninh mạng và các cơ hội và thách thức của các công nghệ thanh toán kỹ thuật số mới nổi.

    /></figure>
</p></div>
<p><script>
  !function(f,b,e,v,n,t,s)
  {if(f.fbq)return;n=f.fbq=function(){n.callMethod?
  n.callMethod.apply(n,arguments):n.queue.push(arguments)};
  if(!f._fbq)f._fbq=n;n.push=n;n.loaded=!0;n.version='2.0';
  n.queue=[];t=b.createElement(e);t.async=!0;
  t.src=v;s=b.getElementsByTagName(e)[0];
  s.parentNode.insertBefore(t,s)}(window, document,'script',
  'https://connect.facebook.net/en_US/fbevents.js');
  fbq('init', '1869260316460941');
  fbq('track', 'PageView');
</script><script>(function(d, s, id) {
		  var js, fjs = d.getElementsByTagName(s)[0];
		  if (d.getElementById(id)) return;
		  js = d.createElement(s); js.id = id;
		  js.src =

    Khủng hoảng tài chính y tế đe dọa các nước đang phát triển

    TTH.VN – Hàng triệu người ở các nước đang phát triển có nguy cơ thiếu thốn thậm chí cả những dịch vụ y tế cơ bản nhất, là kết quả của tình trạng chi tiêu trong nước dành cho y tế thấp và các khoản viện trợ quốc tế cho mảng y tế tăng trưởng chậm, các chuyên gia cho biết ngày hôm qua (13/4).





     src=
    Tình trạng khó khăn về y tế ở nước Cộng hòa Trung Phi. Ảnh: Reuters

    Gần một nửa trong số 80 quốc gia đang phát triển không có khả năng đáp ứng mục tiêu quốc tế về chăm sóc sức khỏe vào năm 2040 – chi 86 USD cho mỗi người trong mỗi năm – hai nghiên cứu được công bố trên tạp chí y khoa The Lancet chỉ rõ.

    “Mặc dù nhu cầu rất lớn, nhưng kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, sự tăng trưởng ảm đạm trong chi tiêu y tế, chủ yếu ở các nước nghèo với gánh nặng bệnh tật nghiêm trọng, sẽ khiến tình hình càng thêm khó khăn trong vòng 25 năm tới”, ông Joseph Dieleman thuộc Viện Đánh giá và Đo lường Y tế Mỹ (IHME) cho biết trong một tuyên bố, và nói thêm rằng “những thay đổi trong việc phát triển và tập trung các khoản viện trợ quốc tế có thể gây tác động nghiêm trọng đến hơn 15 triệu người đang sử dụng liệu pháp kháng virus ở các nước đang phát triển và các dịch vụ y tế tại một số quốc gia có thu nhập thấp, đặc biệt là ở châu Phi hạ Sahara, nơi HIV/AIDS, bệnh lao và sốt rét vẫn nằm trong số các mối đe dọa hàng đầu đối với sức khỏe người dân”.

    Theo dự kiến, chi tiêu y tế toàn cầu ​​sẽ đạt 18,28 nghìn tỷ USD trong năm 2040, nhưng mức chi tiêu dành cho y tế của các quốc gia có thu nhập thấp sẽ chỉ đạt 3% so với ở các nước có thu nhập cao, các nhà nghiên cứu cho biết, khi các quốc gia có thu nhập cao được dự báo ​​sẽ dành trung bình khoảng 9.019 USD mỗi người cho lĩnh vực sức khỏe y tế vào năm 2040.

    Chi tiêu dành cho y tế sẽ vẫn thấp nhất ở chính các nước cần những tiến bộ y tế lớn nhất, trong đoc có Cộng hòa Dân chủ Congo và Cộng hòa Trung Phi, khi mức chi tiêu lần lượt ở 2 quốc gia này trong năm 2013 chỉ có 24 USD và 26 USD mỗi người, các nhà nghiên cứu cho biết.

    Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tăng trưởng hàng năm trong viện trợ phát triển cho y tế (DAH) đã giảm xuống chỉ còn 1,2% mỗi năm trong giai đoạn 2010-2015, từ khoảng 11% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2009. Trong số các nước có thu nhập thấp, chỉ có Rwanda dự kiến đạt được mục tiêu chi tiêu y tế của chính phủ chiếm 5% GDP vào năm 2040, cùng với 1/3 trong số 98 quốc gia có thu nhập trung bình, các nhà nghiên cứu nhận định.

    Nghiên cứu, được tài trợ bởi Quỹ Bill và Melinda Gates Foundation, phân tích chi phí y tế ở 184 quốc gia trong giai đoạn từ 2013-2040, dựa trên các dữ liệu và xu hướng hỗ trợ phát triển từ những năm 1900 đến 2015 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và IHME.

    Tố Quyên (Lược dịch từ Reuters & Newsunited)

    Các nước đang phát triển đối mặt với khó khăn hơn

    Trong bối cảnh vòng đàm phán Doha về tự do hóa thương mại toàn cầu của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) gần như bị giẫm chân tại chỗ, thì một xu thế rất rõ là các nước tăng tốc các thỏa hiệp tự do mậu dịch (FTA) song phương. Các nhà phân tích cho rằng, các nước đang phát triển sẽ gặp nhiều khó khăn hơn từ việc hình thành các hiệp định song phương như vậy.

    Tăng tốc các hiệp ước tự do song phương

    Sau khi vòng đàm phán cấp bộ trưởng của WTO tại Cancun (Mexico) bị đổ vỡ vào tháng 9/2003, các nước nhất là Mỹ, đã tăng tốc thành lập các FTA song phương.

    WTO đang bế tắc trong vấn đề tự do thương mại toàn cầu.

    Cách đây một tuần, Mỹ cũng đã thiết lập FTA với 4 nước vùng Trung Mỹ (El Savador, Guatemala, Honduras và Nicaragua). Hiện tại, nước này đang đẩy mạnh đàm phán riêng lẻ với các nước Nam Mỹ là Colombia, Peru, Ecucador và Bolivia, cũng như nỗ lực để thành lập Khu vực Tự do mậu dịch châu Mỹ (FTAA) vào năm 2005.

    Tại châu Á, xu hướng thành lập các FTA song phương cũng gia tăng nhanh chóng. Hiệp định khung về thành lập khu vực tự do mậu dịch giữa ASEAN với Trung Quốc đã được ký kết, hay các FTA riêng lẻ Singapore-Nhật, Trung Quốc-Thái Lan. Hiện tại, Nhật và Ấn Độ cũng đang tiến hành để thiết lập được các hiệp định tự do với ASEAN…

    Hiện có hai quan điểm khác nhau về việc nở rộ các FTA song phương như vậy. Những người ủng hộ cho các hiệp định FTA song phương là bước đi tiên phong, thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại toàn cầu. Số còn lại cho rằng, sự tập trung vào các FTA song phương sẽ làm giảm uy tín, gây ảnh hưởng xấu đến nỗ lực của WTO, phá vỡ những quy tắc trong thương mại đa phương, cũng như tăng thêm rào cản cho các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo.

    Thách thức cho các nước đang phát triển

    Các nước chịu nhiều thua thiệt nhất hiện nay là những nước nghèo như Nepal, Campuchia, Mông Cổ hay các nước Hồi giáo như Bangladesh, Pakistan. Đây là những nước mà các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của họ bị đánh thuế cao khi vào thị trường Mỹ hay EU. Ông Edward Gresser, một quan chức Bộ thương mại từ thời Tổng thống Bill Clinton cho rằng, nếu việc tự do thương mại đa phương không đạt tiến bộ để xóa bỏ hàng rào thuế quan, thì các nước nói trên sẽ mất nguồn vốn đầu tư và kéo theo hàng triệu người sẽ bị mất việc làm.

    Số tiền trợ cấp cho nông nghiệp ở các nước giàu mỗi năm lên tới 350 tỷ USD. Trong khi đó, tổng viện trợ dành cho các nước nghèo chỉ vào khoảng 50 tỷ USD.

    Còn theo ông Arvind Panagariya, một chuyên gia kinh tế ở Đại học Maryland, các nước đang phát triển có tiếng nói mạnh tại Cancun như Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ phải đối mặt với sự phân biệt nhiều hơn từ EU và Mỹ. Hiện tại, thông qua việc tiến hành các cuộc đàm phán song phương với các nước, Mỹ và EU gây được áp lực và cô lập các nước này. Với các nước nhỏ khác, vị thế của họ sẽ yếu hơn trong các cuộc đàm phán, từ đó sẽ chịu nhiều thiệt thòi trong các hiệp định song phương.

    Vòng đàm phán tại Cancun bị thất bại, đồng nghĩa với việc trợ cấp cho nông nghiệp và tháo dỡ hàng nhập khẩu tại Mỹ và EU sẽ kéo dài thêm. Tình trạng này làm cho các nông sản xuất khẩu của các nước nghèo phải đối mặt với hàng rào cản thuế nhập khẩu cao, rất khó để xâm nhập vào thị trường các nước giàu được. Trong khi nông nghiệp là lĩnh vực (có thể nói là duy nhất) mà các nước nghèo có thể cạnh tranh được với các nước phát triển.

    Sự cần thiết để khởi động lại vòng đàm phán mới

    Dù gì đi nữa, khi vòng đàm phán Doha bị bế tắc thì những nước nghèo phải gánh lấy phần thua thiệt. Vì vậy, Tổng thư ký WTO, ông Supachai Panitchpakdi đã thúc giục các nước phải mau chóng nối lại vòng thương lượng mới.  Các Tổng Giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) Hors Koehler và Ngân hàng thế giới (WB) Wolfensohn, trong báo cáo gởi các chính phủ trong WTO cho rằng, các nước nên mau chóng trở lại bàn đàm phán, đồng thời phê phán chủ nghĩa bảo hộ, xem đó như là một rào cản đối với cuộc chiến chống đói nghèo của Liên hiệp quốc.

    Nông sản các nước nghèo rất khó xâm nhập vào EU, Mỹ hay Nhật Bản do chính sách bảo hộ của những nước này.

    Các nước châu Phi ước tính, nếu việc tự do đa phương được thực thi, xuất khẩu các nước này sẽ tăng 14%, GDP tăng 1,2%. Còn theo số liệu được WTO công bố, thì tình hình thương mại toàn cầu trong năm 2003 tiến triển rất chậm chạp. WB tính toán, nếu vòng đàm phán Doha thành công, sẽ tăng thêm 520 tỷ USD thương mại toàn cầu hằng năm, và 140 triệu người trên thế giới có cơ hội thoát khỏi đói nghèo.

    Hai ông  Koehler và Wolfensohn cho rằng, các nước cần phối hợp hành động để xóa bỏ rào cản thương mại, xem đây là công cụ hữu hiệu nhất giúp thoát khỏi sự nghèo khổ, nâng cao mức sống cho các nước đang phát triển.

    Tuy nhiên, một số nhà phân tích tỏ vẻ không mấy lạc quan về tiến triển của vòng đàm phán Doha. Ông Massey, một cựu chuyên gia Mỹ về đàm phán thưong mại cho rằng, vòng đàm phán đa phương khó mà có tiến triển được khi vấn đề trợ cấp cho nông nghiệp ở các nước giàu không được bãi bỏ. Ông Massey nhấn mạnh đến các bất đồng sâu sắc giữa các nước, nhất là  trên lĩnh vực nông nghiệp, và những bất công mà các nước nghèo phải gánh chịu. Trong khi các nước Mỹ, Nhật, EU thúc ép các nước đang phát triển phải nhanh chóng dỡ bỏ hàng rào thuế quan để cho hàng hóa của họ tràn vào, nhưng lại đóng chặt cánh cửa của mình ở những lĩnh vực mà các nước nghèo có khả năng cạnh tranh được.

    Thêm vào đó, trong 11 tháng còn lại trước khi cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra vào cuối năm sau, có thể Chính phủ nước này sẽ gia tăng các chính sách bảo hộ mậu dịch. Bên cạnh đó, EU lại đang bận bịu với việc mở rộng liên minh vào năm tới. Trong bối cảnh đó, nhiều nhà phân tích cho rằng, vòng đàm phán Doha khó mà kết thúc sớm được, ít nhất là cho đến năm 2007.

    (Hoàng Diệu – Tổng hợp từ Far Eastern Economic Review, Xinhuanet)

    TTWTO VCCI – (Tin tức) 100 nước đang phát triển muốn xong đàm phán Doha


    Một ngày trước khi diễn ra Hội nghị bộ trưởng thường niên các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hơn 100 nước đang phát triển ngày 29/11 đã kêu gọi “khẩn cấp” hoàn tất các cuộc thương lượng về tự do hóa thương mại toàn cầu.

    Lời kêu gọi hành động khẩn cấp trên được các bộ trưởng Nhóm 20 nền kinh tế phát triển và đang nổi (G20), trong đó đứng đầu là Ấn Độ và Brazil, đưa ra, sau đó nhận được sự hậu thuẫn của các nước thuộc khu vực Thái Bình Dương, Caribe và châu Phi (Nhóm ACP) cũng như những nước kém phát triển nhất.

    Khởi động tại thủ đô của Qatar từ năm 2001, Vòng đàm phán Doha hướng tới giúp các nước đang phát triển thoát khỏi cảnh nghèo nhờ vào một thỏa thuận về cắt giảm trợ cấp nông nghiệp và hạ thuế suất đối với các hàng hóa công nghiệp.

    Tuy nhiên, các cuộc đàm phán gặp phải bế tắc do những bất đồng về việc các đối tác thương mại lớn như Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) nên giảm trợ cấp nông nghiệp như thế nào là vừa, còn các nước đang phát triển như Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi nên hạ thuế nhập khẩu hàng công nghiệp bao nhiêu là hợp lý.

    Theo thông cáo của các bộ trưởng G20, cần thiết phải chuyển những thông báo về mặt chính sách thành những cam kết cụ thể tại Geneve, nhằm hoàn thành mục tiêu kết thúc Vòng đàm phán Doha trong năm 2010.

    Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng những vấn đề nóng bỏng cần phải giải quyết ngay như bảo hiểm y tế và chiến sự ở Afghanistan đang khiến Quốc hội Mỹ thờ ơ với tự do hóa thương mại.

    Trong khi đó, G20 lại rất sốt sắng với vấn đề này và cho rằng cần phải có cách thức thu hẹp những bất đồng còn tồn tại giữa các nước phát triển, đang phát triển và kém phát triển về cắt giảm trợ cấp nông nghiệp và hạ thuế nhập khẩu hàng công nghiệp trong một vài tháng tới.

    Các bộ trưởng Nhóm G20 cũng đồng ý rằng cần tổ chức một hội nghị đa phương vào đầu năm tới để thực hiện đề xuất trên, mở đường cho việc kết thúc một cách thành công Chương trình Phát triển Doha trước khi kết thúc năm 2010.

    Theo các chuyên gia phân tích, cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua đã “tàn phá” khắp thế giới, đồng thời cũng nêu bật tầm quan trọng cũng như giá trị của hệ thống thương mại đa phương dựa trên những quy chế và định hướng phát triển./.
    Nguồn: www.vietnamplus.vn


    Hàn Quốc quyết định từ bỏ vị thế nước đang phát triển tại WTO – Đài Phát thanh và Truyền hình Đồng Tháp

    Bộ trưởng Tài chính Hàn Quốc Hong Nam-ki, ngày 25-10 cho biết, nước này đã quyết định từ bỏ quy chế nước đang phát triển tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), một động thái được cho là nhượng bộ Mỹ liên quan việc cải cách thể chế thương mại toàn cầu này.

     width=

    Bộ trưởng Tài chính Hàn Quốc Hong Nam-ki phát biểu tại cuộc họp báo tại Bộ Ngoại giao ở trung tâm Seoul, ngày 25-10-2019. Ảnh: YONHAP

    Theo Bộ trưởng Hong Nam-ki, với vị thế kinh tế của Hàn Quốc hiện nay, ít khả năng cộng đồng quốc tế công nhận Hàn Quốc là một nước đang phát triển trong các cuộc đàm phán tại WTO trong tương lai, vì vậy việc trì hoãn quyết định trên có thể làm tổn hại năng lực đàm phán của Hàn Quốc.

    Thông báo về quyết định trên được đưa ra trong bối cảnh Tổng thống Mỹ Donald Trump hối thúc cải cách tại WTO để đảm bảo rằng các nước tự nhận là nước đang phát triển không lợi dụng chế độ ưu đãi đặc biệt dành cho nhóm nước này.

    Ông Trump cảnh báo rằng, nếu không có tiến bộ đáng kể trong việc cải cách các quy định của WTO trong tháng 10 này, Mỹ sẽ không tiếp tục đối xử với bất cứ thành viên nào trong WTO như một nước đang phát triển trong trường hợp Washington xác định đó không phải là nước đang phát triển.

    Mỹ đã đề xuất WTO bãi bỏ quy chế nước đang phát triển đối với những nước đạt các tiêu chí như là thành viên nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu, là thành viên Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), được Ngân hàng Thế giới (WB) xếp hạng nước có thu nhập cao và chiếm ít nhất 0,5% thương mại toàn cầu. Hàn Quốc đã đáp ứng cả 4 tiêu chí trên.

    Hàn Quốc đã giữ quy chế nước đang phát triển từ năm 1995 để bảo vệ ngành nông nghiệp nhạy cảm của nước này, đặc biệt là lúa gạo. Vấn đề các ưu đãi dành cho các nước đang phát triển sẽ được thảo luận đa phương trong thời gian tới, đồng nghĩa các trợ cấp nông nghiệp của Hàn Quốc và thuế nông nghiệp của nước này sẽ bị ảnh hưởng nếu Seoul vẫn giữ quy chế nước đang phát triển.

    Hiện Hàn Quốc đang áp thuế 513% đối với lượng gạo nhập khẩu vượt hạn ngạch 409.000 tấn gạo nhập khẩu hằng năm từ Mỹ và 4 quốc gia khác, theo hệ thống hạn ngạch thuế suất để hạn chế đến mức tối thiểu sự tiếp cận thị trường nước này. Tổng trợ cấp cho nông nghiệp của Hàn Quốc tùy thuộc giá trị sản lượng nông nghiệp trong một năm, với mức trần khoảng 11.490 tỷ won (9,7 tỷ USD).

    (Theo: Phan Anh/SGGPO)

    Các nước đang phát triển châu Á: Làm gì để chuyển dịch sang nhóm thu nhập cao?

    8 điểm then chốt

    Chương trình nghị sự 8 điểm này gồm: An ninh và ổn định chính trị: Các thành tựu trong tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo mà chúng ta phải nỗ lực rất lớn mới có được có thể bị xóa sạch nếu các vấn đề an ninh, bất ổn chính trị xuất hiện. Do đó, cần luôn lưu tâm và dành ưu tiên cho vấn đề này.

     width=
    Nhu cầu đầu tư cho CSHT tại khu vực vẫn rất lớn

    Ổn định KTVM: Đây là yếu tố quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ. Không có nền kinh tế nào có thể phát triển thịnh vượng nếu gặp phải các bất ổn KTVM. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 là cảnh báo không chỉ cho các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất. Các nhà hoạch định chính sách trong khu vực đã nỗ lực làm việc để củng cố và tăng cường hệ thống tài chính, tài khóa và tiền tệ của họ. Cải cách trong nước là bước cần thực hiện trước tiên, nhưng hợp tác khu vực cũng đóng một vai trò ngày càng quan trọng. Nó giúp xây dựng khả năng phục hồi của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

    Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trong một thế giới ngày càng liên kết mạnh mẽ thì quản lý vĩ mô là rất quan trọng để làm cho nền kinh tế tăng khả năng chống tác động lan tỏa tiêu cực do các cú sốc kinh tế hay những cú sốc khác.

    Cơ sở hạ tầng (CSHT): Vẫn còn tồn tại một khoảng cách lớn trong việc phát triển CSHT tại châu Á. Nhu cầu đầu tư cho CSHT là rất lớn, ước tính khoảng 750 tỷ USD mỗi năm từ nay đến năm 2020. Kết nối giao thông thiếu hụt và kém phát triển, giá năng lượng đắt là những vấn đề cấp bách nhất. Chi tiêu công cho CSHT phải tăng lên trong khi các nước cũng cần tập trung vào thúc đẩy mối quan hệ công – tư (PPP). Các CSHT xuyên biên giới – cảng biển, đường sắt và các tuyến đường bộ – là những trọng tâm cần chú ý.

    Những lợi ích xuyên biên giới mà Việt Nam thu được từ Chương trình tiểu vùng Mê Kông là minh chứng cho điều này. Ví dụ, sự phát triển của Hành lang kinh tế phía Nam, với việc nâng cấp đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Phnom Penh cũng như cơ chế tạo thuận lợi thương mại và vận tải, đã giúp giảm một nửa thời gian đi lại và thúc đẩy thương mại biên giới lên 70 lần.

    Nguồn nhân lực: Khu vực đã đạt được rất nhiều thành tựu trong tăng cường nguồn lực con người. Ví dụ, số năm đi học trung bình đã tăng từ mức 4,2 năm năm 1990 lên 6,6 năm vào năm 2010, qua đó giúp tăng cường lực lượng lao động lành nghề. Nhưng con số ấy rõ ràng vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình 11,5 ở các nước phát triển trong khu vực.

    Chi tiêu công cho giáo dục và y tế ở các nước đang phát triển châu Á cũng chỉ có 2,9% và 2,4% GDP châu Á trong năm 2010, thấp hơn đáng kể so với các mức tương ứng 5,3% và 8% ở các nước tiên tiến của khu vực. Như vậy, những con số này phải tăng lên hơn nữa.

    Các cơ chế thương mại và đầu tư thông thoáng: Tăng cường khả năng cạnh tranh toàn cầu có thể thúc đẩy bằng cách cải thiện môi trường đầu tư, thực thi các quy tắc nhất quán và làm sâu sắc hơn sự phát triển của thị trường tài chính để tiết kiệm chảy vào các kênh hiệu quả hơn. Đặc biệt quan trọng là xây dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DNNVV, tạo điều kiện để họ tiếp cận tài chính, công nghệ, thị trường và khuyến khích họ tạo việc làm, hỗ trợ tăng trưởng.

    Ví dụ ở Đông Nam Á, Cộng đồng Kinh tế ASEAN dự kiến sẽ được thiết lập trong năm tới có thể trở thành động lực để thể chế hóa cho các cơ chế thương mại và đầu tư thông thoáng, giúp duy trì tăng trưởng qua các tiểu vùng.

    Quản trị tốt: Nếu không có quản trị tốt, người ta có thể chuyển năng lực và nhiệt huyết của mình dành cho sáng tạo và giải quyết các công việc khó khăn sang những hoạt động không hiệu quả. Ví dụ, người ta ước tính rằng tham nhũng có giá tương đương với hơn 5% GDP toàn cầu. Tham nhũng không chỉ cản trở đầu tư và tăng trưởng, mà còn làm méo mó thu nhập. Ngày càng có nhiều quốc gia đang phát triển trong khu vực đẩy mạnh các nỗ lực chống tham nhũng, chẳng hạn như Indonesia, Ấn Độ, Philippines, Trung Quốc và Việt Nam.

    Trong khi những nỗ lực ấy là đáng khuyến khích, thì công cuộc chống tham nhũng tại các quốc gia này cũng vẫn là một hành trình dài. Khuôn khổ pháp lý cần phải được thắt chặt và những khoảng trống pháp lý cần phải được hóa giải. Công tác thực hiện và thực thi pháp luật phải được tăng cường. Ngoài kiểm soát tham nhũng, quản trị tốt còn có nghĩa là phải tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình tốt hơn, đồng thời có sự tham gia rộng rãi hơn của người dân trong các vấn đề quốc gia.

    Cam kết vì tăng trưởng toàn diện: Tăng trưởng kinh tế nhanh của các nước phát triển châu Á – được dẫn dắt bởi những tiến bộ công nghệ, toàn cầu hóa, và thị trường theo định hướng cải cách – cũng đi kèm với sự bất bình đẳng thu nhập gia tăng, cả trong nước và giữa các quốc gia.

    Chìa khóa để chống lại sự bất bình đẳng gia tăng là cùng với duy trì tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ thì đồng thời tăng trưởng phải theo hướng toàn diện hơn thông qua việc hướng sự quan tâm vào những đối tượng đang ít có điều kiện tiếp cận với các cơ hội, dù thông qua việc cung cấp dịch vụ công tốt hơn hay tạo cho họ điều kiện hòa nhập tài chính rộng hơn, đặc biệt là ở các vùng kém phát triển.

    Xây dựng một chiến lược kết nối và chia sẻ phát triển quốc gia: Đây chính là sự cần thiết phải xây dựng được một tầm nhìn hay một chiến lược rõ ràng cho sự phát triển được người dân ủng hộ. Trong khi chúng ta biết rằng khu vực tư nhân là động cơ cho sự phát triển ở bất kỳ nước nào, thì trách nhiệm của các chính phủ là phải xây dựng được các chính sách phù hợp với chiến lược quốc gia, ưu tiên hóa các kế hoạch chi tiêu và đầu tư của mình, và phù hợp trong định hướng cho khu vực tư nhân. Chiến lược ấy cần có mang tính hệ thống, thực tế và linh hoạt để sẵn sàng đáp ứng với các hoàn cảnh thay đổi.

    ADB có thể giúp cách nào?

    ADB sẽ đồng hành cùng chương trình 8 điểm này thông qua các hỗ trợ về tài chính, xây dựng năng lực, chia sẻ kiến thức và đối thoại chính sách. Từ khi thành lập vào năm 1966, ADB đã làm việc với các nước thành viên để giúp thúc đẩy quá trình phát triển. Thời kỳ đầu, những nước được tập trung nhất là các quốc gia có thu nhập thấp và sa lầy trong nghèo đói. ADB đã chứng kiến và đóng góp lớn cho những chuyển đổi đang diễn ra trong khu vực.

    Trong hơn bốn thập kỷ qua, ADB tiến bước cùng với các nhu cầu thay đổi của khu vực cũng như những thách thức mới. Chiến lược 2020 của ADB nêu bật ba chương trình chiến lược để đạt được tầm nhìn về khu vực châu Á – Thái Bình Dương không có đói nghèo. Đó là: Tăng trưởng kinh tế toàn diện; Tăng trưởng bền vững, thân thiện với môi trường; Hợp tác khu vực và hội nhập.

    Đánh giá giữa kỳ gần đây của ADB về Chiến lược 2020 chính là nhằm thích ứng với thực tế hoạt động mới, như vấn đề bất bình đẳng gia tăng, biến đổi khí hậu hay các vấn đề khác mà các nước thu nhập trung bình đang phải đối mặt.

    ADB luôn cố gắng để đảm bảo các tài trợ của mình hiệu quả và mang lại kết quả phát triển. Cho vay trực tiếp của ADB chỉ ở mức nhỏ, vì vậy ADB sẽ tăng cường kết hợp cho vay với đòn bẩy và kiến thức.

    Và ADB cũng đang cải cách và đổi mới trong tổ chức để phục vụ tốt hơn các quốc gia thành viên. Đơn cử, một văn phòng chuyên về PPP, trực thuộc trực tiếp văn phòng riêng của Chủ tịch ADB đã được thành lập để cung cấp dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật cho hoạt động PPP.

    Hay ADB cũng đang cải cách các thủ tục mua sắm và kinh doanh khác để giảm bớt gánh nặng cho các nước thành viên và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án. Đồng thời, ADB cũng đang xem xét trao quyền nhiều hơn cho các Phái đoàn Đại diện của mình tại các nước nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các nước thành viên.

    Bài và ảnh Đỗ Lê

    Điều gì tiếp theo cho các thị trường đang phát triển?

    Báo cáo mới từ Nielsen “Điều gì tiếp theo cho các thị trường đang phát triển?” đã cung cấp những dẫn chứng đầy sức thuyết phục rằng người tiêu dùng tại Brazil, Việt Nam, Argentina, Ghana và Bờ Biển Ngà ngày càng sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn.

    Báo cáo này kết hợp từ các dữ liệu của Nielsen về thức ăn nhẹ (snack) và bia với các chỉ số kinh tế vĩ mô và các dự báo để xác định những thị trường đang tăng trưởng này.

    “Bia và snack không chỉ là những thực phẩm chỉ để giải trí. Mà hai ngành hàng này còn cho thấy những chỉ số chứng minh rằng việc mua sắm hai ngành hàng này được người tiêu dùng lựa chọn ngay cả khi họ không có nhu cầu thiết yếu về chúng. Hơn thế nữa, chúng tôi cũng quan sát thấy rằng những quốc gia có điều kiện kinh tế vĩ mô tốt sẽ là môi trường thuận lợi cho hai ngành hàng này tăng trưởng”, nhận định của Regan Leggett, Giám đốc Điều hành, Bộ phận Thought Leadership, Nielsen.

    Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, trong vòng 10 năm qua các thị trường đang phát triển đã góp phần phát triển nền kinh tế toàn cầu, đóng góp hơn 80% vào sự tăng trưởng toàn cầu. Ngày nay, ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) ở các thị trường được Nielsen đo lường luôn đạt được sự tăng trưởng vượt trội đáng kể, từ hai đến bốn lần so với các quốc gia phát triển.

    Nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả các tăng trưởng đều sẽ dễ dàng hoặc luôn được đảm bảo.

     src=

    “Nhiều khách hàng của chúng tôi đang nhận thấy rằng chiến lược và chiến thuật để triển khai các kế hoạch kinh doanh tại các thị trường đang phát triển phải thay đổi nhanh hơn so với những gì họ đã làm trong quá khứ. Người tiêu dùng tại các thị trường đang phát triển và các đối thủ cạnh tranh ngày càng trở nên thông thái, nhanh nhẹn và tân tiến hơn. Để giành được thắng lợi từ hôm nay và cả ngày mai, bạn phải luôn luôn thay đổi chiến lược để bắt kịp với những điều đang thay đổi liên tục trong thực tiễn tại các thị trường này”, Pat Dodd, Chủ Tịch, Khối Các Thị Trường Phát Triển, Nielsen nhận xét.

    Ở các thị trường đang phát triển, các xu hướng bia toàn cầu luôn có cơ hội để tăng trưởng mạnh mẽ như các sản phẩm bia cao cấp, bia thủ công (craft), bia vị trái cây (cider) và các loại bia theo mùi vị. Khi quan sát lịch sử doanh số ngành hàng bia trong vài năm vừa qua chúng tôi nhận thấy rằng các dòng sản phẩm này tại các thị trường đang phát triển cũng thể hiện sự tăng trưởng như xu hướng toàn cầu. Tại Ghana, người tiêu dùng đang chuyển dần việc sử dụng các loại bia được sản xuất từ lúa mạch và bia lager sang sử dụng các loại bia có vị trái cây và các vị khác như các loại bia có hương vị chanh (shadies) và các loại thức uống có vị bia – các loại thức uống rất thu hút đối với những người không thích vị bia truyền thống. Các nhóm sản phẩm này đang dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng, tăng lần lượt là 51% và 21% về mặt doanh số.

    Snack là sản phẩm đang được người tiêu dùng trên toàn cầu rất ưa chuộng. Thật vậy, trong năm 2017, ngành kinh doanh các sản phẩm đã tăng gần 3,4 tỷ USD trên toàn thế giới. Sự tăng trưởng trong nhu cầu tiêu thụ thức ăn nhẹ được thúc đẩy bởi việc các nhà sản xuất nội địa cung cấp mức giá vừa phải để thu hút NTD. Trên thực tế, ở Argentina, từ năm 2016, doanh số bán hàng snack của các nhà sản xuất nội địa đã đạt mức tăng trưởng hai chữ số trong khi các nhà sản xuất toàn cầu cho thấy sự tăng trưởng chậm chập (47% so với 2%, theo thứ tự).

     src=

    Bốn cơ hội cho các thị trường đang phát triển

    Thương hiệu cao cấp và nhãn hàng riêng: Doanh thu từ các thương hiệu cao cấp và cá nhân đều có xu hướng tăng lên. Người tiêu dùng thấy được rằng những sản phẩm nhãn hàng riêng đang cải thiện chất lượng và sẵn sàng trao đổi thương hiệu đặc trưng của mình cho những khách hàng sẵn sàng chi tiêu với giá trị này. Hàng hóa cao cấp vẫn có thể mang lại giá trị mạnh mẽ và cung cấp cho người tiêu dùng một trải nghiệm độc đáo.

    • Các nhãn hàng cao cấp, nhãn hàng riêng và những nhà sản xuất nội địa đang thúc đẩy tăng trưởng ở Argentina. Ngay cả trong suốt năm 2016 – trong thời kỳ lạm phát tồi tệ nhất – sản lượng các sản phẩm cao cấp tăng 12,9%, gần gấp đôi mức trung bình trong khu vực, trong khi phần còn lại của FMCG đang giảm.
    • Brazil đang có bước phát triển vững chắc hướng tới một nền kinh tế mạnh hơn, được thúc đẩy bởi các nhãn hàng riêng, các sản phẩm cao cấp lẫn các thương hiệu do các doanh nghiệp nội địa tạo ra. Năm 2016, các thương hiệu nội địa đóng góp gần 90% trong việc hình thành các thương hiệu giá rẻ mới và các nhãn hàng riêng, tăng số lượng mặt hàng có mức giá tương tự lên đến 28%.
    • Thậm chí trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, lượng bia siêu cao cấp tại Brazil vẫn có mức tăng trưởng 30% và các loại bia cao cấp tăng 7% (so giữa tháng 7/2016 và tháng 7/2015).

    Kết Nối: Người tiêu dùng tại các thị trường đang phát triển đang đặt ra xu hướng trong các hành vi số, điện thoại di động và thương mại điện tử – không chỉ ở các quốc gia của mình mà trên qui mô toàn cầu. Những người tiêu dùng này đang bỏ qua các hệ thống truyền thống đã từng tồn tại ở các thị trường phát triển.

    Khu vực nông thôn Việt Nam sẽ vẫn là một nguồn tăng trưởng tiềm năng cho các công ty FMCG.

    • Các hoạt động mua hàng và hành vi mua sắm bằng kỹ thuật số sẽ trở thành tiêu chuẩn cho người Brazil.
    • Và các thương hiệu đã nắm được điểm này. Trong hai năm 2016 và 2015, báo cáo Nielsen Digital Ad đã cho thấy mức tăng 15,9 lần trong các chiến dịch quảng cáo có sử dụng điện thoại di động là một trong những nền tảng chính. Cụ thể, việc quảng cáo trên điện thoại di động đã tăng từ 8% trong năm 2015 lên đến 58% trong năm 2016, trong tất cả các chiến dịch được đo lường.

    Thương Mại truyền thống: Trong khi thương mại hiện đại đang phát triển, thì ở nông thôn – nơi có cơ hội lớn nhất cho tăng trưởng – thương mại truyền thống vẫn là một nền tảng quan trọng.

    • Các nhà sản xuất, bán lẻ nội địa cũng như khu vực nông thôn đang là những nhân tố tạo sức nóng cho thị trường Việt Nam. Các nhà bán lẻ địa phương đang dần định hình lại toàn cảnh của thị trường bán lẻ. Theo số liệu Đo lường bán lẻ từ Nielsen, trong 10 tháng đầu năm 2017 đã có hơn 600 cửa hàng thương mại hiện đại đươc mở ra. Trong số các cửa hàng đó, ba thương hiệu nội địa đã mở được 275 cửa hàng.
    • Tại Bờ Biển Ngà, người tiêu dùng mua hai phần ba các sản phẩm FMCG trong các cửa hàng thương mại truyền thống bao gồm tại các ki-ốt, cửa hàng tiện lợi và chợ truyền thống – những địa điểm mà họ thường xuyên ghé thăm nhiều lần trong tuần. Nhìn sơ qua một số ngành hàng phổ biến nhất, ta sẽ thấy rằng kiốt đang thúc đẩy phần lớn sự tăng trưởng. Tuy nhiên, các cửa hàng tạp hóa vẫn đang nắm giữ một thị trường của riêng mình, và trong năm ngoái đã cho thấy ​​sự tăng trưởng mạnh mẽ và đồng nhất ở những ngành hàng đó.

    Đô thị hóa ở vùng nông thôn và các thành phố với mật độ dân cư trung bình: Vùng nông thôn và các thành phố với mật độ dân cư trung bình sẽ là điểm dừng tiếp theo. Khi cơ sở hạ tầng và các cơ hội việc làm được cải thiện ở những khu vực đang phát triển này, các trung tâm thương mại mới cũng sẽ đồng thời được thiết lập.

    • Theo tổ chức Liên Hợp Quốc, ​​phần lớn sự tăng trưởng của Ghana sẽ diễn ra ở các khu vực thành thị, cho đến năm 2025 và 39% dân số sẽ sống ở các đô thị có mật độ hỗn hợp, từ 1 đến 5 triệu người.
    • Khu vực nông thôn Việt Nam sẽ vẫn là một nguồn tăng trưởng tiềm năng cho các công ty FMCG. Năm ngoái, doanh số bán hàng tại khu vực nông thôn tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng tại các khu vực đô thị, 7,7% so với 5,0% theo thứ tự (MAT Q3 2017), nhưng tăng trưởng không đều.

    “Chúng tôi thực hiện nghiên cứu báo cáo này để giúp các nhà bán lẻ và các nhà sản xuất khám phá ra những tiềm năng tăng trưởng chính và giúp họ hiểu được những gì đang xảy ra tiếp theo trong ngành hàng của họ, những xu hướng toàn cầu và người tiêu dùng cũng như cơ hội của thị trường đang phát triển có thể thay đổi như thế nào trong những năm tới“, Pat Dodd cho biết thêm.

    Để biết thêm chi tiết, hãy tải toàn bộ báo cáo tại đây.

    * Nguồn: Nielsen

    Trung Quốc vẫn là nước đang phát triển lớn nhất thế giới

    BNEWS.VN Theo chuyên gia kinh tế Wang Yuanhong từ Trung tâm Thông tin Nhà nước Trung Quốc, Trung Quốc vẫn là nước đang phát triển lớn nhất thế giới dù đạt được các thành tựu kinh tế nổi bật.

     src=

    Trung Quốc vẫn là nước đang phát triển lớn nhất thế giới. Ảnh minh hoạ: Xinhua

    Nhà kinh tế Yuanhong nhận định Trung Quốc hiện vẫn có Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp, khoảng cách giữa khu vực thành thị và nông thôn vẫn còn lớn, sức cạnh tranh trong công nghiệp và đổi mới công nghệ còn yếu.

    Số liệu mới nhất cho thấy GDP bình quân đầu người năm 2016 của Trung Quốc chỉ bằng 80% mức trung bình của thế giới, bằng 1/7 mức của Mỹ và đứng thứ 68 trên bảng xếp hạng toàn cầu.

    Chi tiêu tiêu dùng bình quân đầu người của Trung Quốc năm 2016 chỉ đạt 2.506 USD, chưa bằng một nửa mức trung bình của thế giới và chỉ bằng 7% mức của Mỹ. Hệ số Engel, thước đó chi phí dành cho ăn uống trong tổng chi tiêu hộ gia đình, của Trung Quốc đạt 29,3%, cao hơn nhiều so với các nền kinh tế phát triển. Điều này có nghĩa là người Trung Quốc vẫn phải chi tiêu nhiều cho các nhu cầu căn bản. Chi tiêu của người Trung Quốc cho văn hóa, chăm sóc sức khỏe, giải trí và du lịch thấp hơn nhiều so với các nước phát triển.

    Nhà kinh tế Yuanhong nhận định kết cấu công nghiệp của Trung Quốc cần được nâng cấp khi tỷ trọng của lĩnh vực cơ bản còn quá lớn, trong khi tỷ trọng của lĩnh vực chế tạo vẫn còn thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu.

    Trung Quốc vẫn là “nước đi sau trong đổi mới công nghệ. Lý do là 80% công nghệ lõi mà phần lớn là thiết bị công nghệ cao, và phụ tùng lõi của nước này phụ thuộc vào nhập khẩu. Trung Quốc chưa hoàn thành việc xây dựng mô hình tăng trưởng dựa vào đổi mới.

    Khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người của người dân giữa các tỉnh thành Trung Quốc có thể lên tới hơn bốn lần. Thực tế cho thấy vẫn tồn tại một khoảng cách đáng kể trong hạ tầng và các dịch vụ công giữa các thành phố và làng mạc. Tỷ lệ đô thị hóa của Trung Quốc đạt 58,52% trong năm 2017, so với mức khoảng 80% tại các nước phát triển.

    Share
    Follow

    ABOUT US

    LEAF DESIGN® CO., LTD since 2015 | MST 0313737578

    Hotline: 09 666 235 04 | Email: leaf@leafdesign.vn

    "interior design & construction" Copyright © LEAF design | Appeared on FACEBOOK | INSTAGRAM | YOUTUBE | WEBSITE

    Loading...