• HOME
    • Facebook
    • Instagram
    • Youtube
  • CÔNG TRÌNH
  • Leaf ‘stories
  • About us
  • LEAF Furniture Talks !
    • FOR YOU
    • Retail
    0.00 ₫(0 items)
    • HOME
      • Facebook
      • Instagram
      • Youtube
    • CÔNG TRÌNH
    • Leaf ‘stories
    • About us
    • LEAF Furniture Talks !
      • FOR YOU
      • Retail

    Table of Contents

        • Bạn có biết nguyên tố hóa học đầu tiên trong lịch sử được tìm ra nhờ nước tiểu?
        • Khám phá môn hóa học
      • Guiding Ideas
      • Student Activities
      • Performance Expectations
        • Bốn nguyên tố hóa học mới đã có tên chính thức
        • danh sách các nguyên tố hóa học
        • Tác dụng của các nguyên tố hóa học trong thép không gỉ, inoxthaiduong.com, CÔNG TY TNHH VẬT TƯ CÔNG NGHIỆP THÁI DƯƠNG
        • Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học
    • Nguồn: wikipedia
        • Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học của Mendeleyev ra đời từ giấc mơ?
        • Nguyên tố Hóa Học là gì và những ký hiệu Hóa Học thường dùng
      • Nguyên tố Hóa Học là những nguyên tử có cùng số hạt proton trong hạt nhân
    • 3. Có bao nhiêu nguyên tố Hóa Học
      • Có tất cả 118 nguyên tố Hóa Học
      • Nguyên tử khối là khối lượng của một nguyên tử
      • Học hóa học phải nhớ ký hiệu nguyên tố Hóa học

    Bạn có biết nguyên tố hóa học đầu tiên trong lịch sử được tìm ra nhờ nước tiểu?

    Phốt pho là một nguyên tố quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Đúng nghĩa đen luôn, bởi lẽ nhiều dạng phốt pho có mặt trong AND, ARN và trong màng của tế bào sống. Phốt pho đứng thứ 6 trong số các nguyên tố được tìm thấy nhiều nhất trong một cơ thể sống.

    Mặc dù vậy, phốt pho lại có độc tố cao và dễ dàng phát nổ (lý do tại sao họ sử dụng phốt pho trong nhiều vũ khí hủy diệt, điển hình là bom napalm). Phốt pho là nguyên tố được phát hiện bởi nhà giả kim Hennig Brand vào năm 1669. Và việc tìm ra phốt pho cũng không “sạch sẽ” gì lắm, cụ Brand đang tinh chế một lượng lớn nước tiểu và đột nhiên phát hiện ra phốt pho và phát hiện ấy đi vào sử sách: phốt pho là nguyên tố đầu tiên được phát hiện.

    
Bức vẽ của Joseph Wright, mô tả lại cảnh một nhà giả kim đang làm thí nghiệm.

    Bức vẽ của Joseph Wright, mô tả lại cảnh một nhà giả kim đang làm thí nghiệm.

    Cụ Brand sinh năm 1630 tại Hamburg, Đức. Không có nhiều ghi chép mô tả lại thời điểm đầu đời cũng như giai đoạn trưởng thành của cụ, nhưng người ta tin rằng Brand đã từng là một sĩ quan quân đội trong Chiến tranh Ba mươi năm. Sau khi rời quân đội, cụ trở thành học việc cho một người thợ làm kính. Lấy được một người vợ giàu có, ông bỏ công việc và theo đuổi ước mơ của mình, ước mơ mà một người thợ làm kính thì không đủ tiền chi trả: đó là trở thành một nhà giả kim đi tìm viên đá phù thủy (philosopher’s stone) trong truyền thuyết, hòn đá có thể biến kim loại thành vàng và có thể kéo dài tuổi thọ của con người.

    Ở trường học thì ít có thầy cô giáo hóa học hay lịch sử nào (hoặc ít ra mình thấy thế) giới thiệu cho học sinh về hòn đá phù thủy, có lẽ viên đá này chỉ thực sự nổi tiếng qua tập truyện/bộ phim Harry Potter phần đầu tiên. Nhưng lịch sử về một viên đá quyền năng có thể biến kim loại thành vàng, là thành phần của thuốc trường sinh bất lão thì đã có từ lâu rồi.

    Công cuộc điều chế, tìm kiếm hòn đá phù thủy được nhiều nhà khoa học theo đuổi vào Thời kì Phục Hưng và Thời Trung Cổ. Các bạn không nghe nhầm đâu, chính xác là các “nhà khoa học” đó, những ví dụ điển hình nhất là Roger Bacon (một trong những người đầu tiên ủng hộ phương pháp khoa học hiện đại), Robert Boyle (cha đẻ của vật lý và hóa học hiện đại) và cả Isaac Newton (không cần trích dẫn thành tựu nữa nhỉ?).

    
Isaac Newton cũng đã từng theo đuổi giấc mơ hòn đá phù thủy ấy.

    Isaac Newton cũng đã từng theo đuổi giấc mơ “hòn đá phù thủy” ấy.

    Như nhiều nhà giả kim thuật khác, cụ Brand đã tiến thành những thí nghiệm hóa học của mình nhằm mục đích tìm ra viên đá phù thủy. Và việc nghiên cứu một thứ xa vời, phi thực tế và không đem lại chút lợi nhuận nào như thế đã khiến nguồn quỹ của hai vợ chồng cụ Brand sớm cạn kiệt.

    Nhưng một khi số phận muốn bạn tiếp tục làm việc để thành công thì bạn muốn né cũng khó tránh. Sau khi người vợ đầu tiên của cụ Brand qua đời, cụ đã tái giá với một góa phụ giàu có khác có tên Margaretha. Công việc nghiên cứu được tiếp tục khi cụ nhận được nguồn ngân sách dồi dào từ người vợ thứ hai, và một cậu con trai (người vợ thứ 2 của ông đã có một người con từ cuộc hôn nhân trước) để phụ giúp cụ Brand trong công việc thí nghiệm. Cụ tự gọi mình là “giáo sư Brand”, dù rằng không một tài liệu nào ghi lại rằng ông được nhận bằng cấp “giáo sư” ở đâu cả.

    “Giáo sư Brand” đặc biệt quan tâm tới cách mà nước kết hợp với những thứ khác và cụ nghĩ rằng, bởi vì nước là nguồn căn của sự sống, chắc hẳn đằng sau nó là một bí ẩn gì đó. Vào thời điểm đó, các nhà giả kim nghĩ rằng chính bản thân con người có thể nắm giữ những thành tố quan trọng trong giả kim thuật, bởi lẽ chất đi vào cơ thể chúng ta sẽ ra những “sản phẩm” khác. Cụ Brand tìm thấy trong một cuốn sách về giả kim công thức để biến kim loại thành vàng, công thức gồm có phèn, kali nitrat và một lượng nước tiểu của người.

    
Có thể bạn chưa biết: Nước tiểu của chúng ta chứa phốt pho .

    Có thể bạn chưa biết: Nước tiểu của chúng ta chứa phốt pho .

    Cụ Brand đã thử với nước tiểu của mình, không lâu sau cụ nhận thấy rằng số lượng nước tiểu cần có để đủ cho công thức và toàn bộ quá trình thử nghiệm phải nhiều, cực nhiều hơn nữa.

    Sử sách không ghi lại chính xác cụ đã lấy đâu ra một lượng nước tiểu lớn để làm thí nghiệm. Một vài người nói rằng ông đi hỏi quanh những người bạn của mình. Một vài người khác quả quyết rằng ông dựa vào hồ sơ quân sự cũ của mình, hỏi xin nước tiểu từ những người lính Đức trong quân đội. Nhiều người nói rằng cụ Brand đặc biệt quan tâm tới nước tiểu của người uống bia nhiều (đây là nước Đức mà ta đang nói tới đó), bởi lẽ nước tiểu của những người này thường có một “ánh vàng đặc trưng” trong đó. Không biết từ nguồn nào thì đủ, nhưng có ghi lại rằng cụ Brand đã xài tới 1.500 gallon nước tiểu (tương đương 5678 lít) để làm thí nghiệm. Mất công đến mấy thì cũng sẽ được đền bù xứng đáng khi mà từ chỗ nước tiểu khổng lồ đó, cụ Brand chế được ra vàng, hay ít ra là cụ nghĩ như vậy.

    Xung quanh cách thức mà cụ Brand chế tạo vàng bằng nước thì vẫn còn nhiều tranh cãi. Nhiều nguồn ghi lại rằng đầu tiên cụ phơi nắng nước tiểu vài tuần, sau đó đun sôi thứ nước tiểu kia, biến nó thành một thứ dung dịch đặc quánh. Tiếp tục đun cho tới khi nó nhả khói màu đỏ, rồi để nguội cho tới khi dung dịch biến thành màu đen. Rồi thứ chất đen còn lại đó được hòa với dầu, đun nóng một lần nữa. Kết quả sau thử nghiệm là những giọt dung dịch sáng trắng được cho chảy nhỏ giọt vào một bình chưng cất. Và ngay khi giọt dung dịch ấy tiếp xúc với không khí, nó bùng lên một ngọn lửa và toát ra mùi “như tỏi”, theo như nghiên cứu ghi lại.

    Phản ứng cháy của phốt pho trong môi trường oxy nguyên chất.

    Giọt chất ấy chính là phốt pho, nguyên tố đầu tiên của con người tìm ra (chính xác thì đó là phốt pho trắng, nguyên tố hóa học rất dễ bắt lửa và tự bùng cháy khi tiếp xúc với oxy), nhưng tất nhiên là thời đó thì cụ Brand không lôi ra đầu bảng tuần hoàn hóa học để tra hay hỏi google cả. Cụ đặt tên nó là phốt pho – phosphorus, có nghĩa là “sao buổi sớm”, theo như tiếng Hy Lạp gọi thần Vệ Nữ. Và lúc ấy, cụ Brand nghĩ rằng mình đã tìm ra viên đá phù thủy. Vì lẽ đó, cụ đã giấu phát hiện của mình trong sáu năm trời, lo sợ rằng sẽ có người cướp đi công sức của mình hay tệ hại hơn, nó sẽ đem lại tai họa đến cho toàn bộ gia đình.

    Cụ Brand tiếp tục làm thí nghiệm với chất mới khám phá ra, tìm ra được rằng thứ chất này có thể được lưu giữ trong nước, phát sáng khi tiếp xúc với không khí và nhiều khi có thể tự bốc cháy. Cụ đã sử dụng chất này để thắp sáng phòng thí nghiệm, thậm chí là tạo ra được một loại mực phát sáng trong bóng tối. Nhưng có một điều mà cụ không làm được, điều quan trọng nhất với một nhà giả kim lúc ấy, đó là sử dụng nó để biến kim loại thành vàng.

     id=

    Sau sáu năm ròng thử nghiệm, cuối cùng cụ Brand đã chấp nhận thực tại rằng mình đã không tạo được ra hòn đá phù thủy trong truyền thuyết, mà đã tạo ra một chất gì đó khác biệt, một chất gì đó chưa từng được biết đến. Nhưng dù có là chất gì thì ông cũng không sử dụng nhiều đến nó và hơn nữa, nó cũng không thể cứu cụ khỏi gia cảnh khốn khó lần hai, khi mà một lần nữa ông lại “nướng” hết số tiền của mình (và của vợ) vào những nghiên cứu giả kim ấy.

    Nhưng khi nghe tới lớn đồn về “một chất ‘sáng chói lọi’ hơn mọi chất khác”, nhà hóa học Johann Kunckel tới thăm cụ Brand và hỏi mua loại thứ chất ấy (mặc dù cụ Brand vẫn giữ bí mật về cách tạo ra nó).

    Rồi các nhà hóa học khác cũng nghe tới về loại chất này, ai ai cũng thúc giục cụ nói ra bí mật tạo nên phốt pho và rồi cuối cùng thì công thức sử dụng nước tiểu ấy cũng được tiết lộ. Dựa vào đó, các nhà hóa học khác bắt tay ngay vào việc thử nghiệm, tái tạo lại công thức kì dị đó. Rồi cụ Brand chìm dần vào quên lãng, khi mà các nhà hóa học khác dần nổi lên như là những người đã phát hiện ra chất phốt pho.

    Cụ Brand mất đầu thế kỷ 18 (ngày tháng chính xác không rõ) và không được công nhận công sức phát hiện ra phốt pho của mình. May mắn thay, từ những lá thư từ người vợ thứ hai Margherita của cụ, người ta đã xác nhận được cha đẻ của phốt pho là cụ Hennig Brand, cho dù muộn nhưng hoàn toàn xứng đáng.

    Lần tới, khi mà bạn đi vệ sinh, hãy nhớ rằng trong quá khứ, qua việc thử nghiệm với hàng nghìn lít nước tiểu, một người đã khám phá ra nguyên tố hóa học đầu tiên: cụ Hennig Brand đã khám phá ra chất phốt pho.

    Khám phá môn hóa học

    Guiding Ideas

    Oxi là nguyên tố chiếm 20,9% thể tích không khí. Là khí chúng ta hít vào mỗi ngày. Vậy tổng số hạt của nguyên tử Oxi là bao nhiêu?

    Muối ăn là chất rất cần thiết cho cơ thể người. Công thức hóa học của muối ăn là gì?

    Công thức hóa học của nước là gì?

    Student Activities

    Học sinh sử dụng đường ray xe lửa và minecart để di chuyển đến các trạm kiến thức. Sẽ có 5 trạm kiến thức và có các NPC để tìm hiểu thông tin. Tại mỗi địa điểm sẽ có các yêu cầu. Học sinh vận dụng các kiến thức đã học để thực hiện. Yêu cầu sử dụng camera và porfolio và viết báo cáo. Có thể chơi đơn hoặc cặp đôi

    Trạm 1: Sử dụng máy Element Contructor để tạo ra nguyên tử Oxi (dựa vào số hạt p,e,n để tạo).

    Trạm 2: Tiếp tục sử dụng máy Element Contructor để tạo ra nguyên tử Cacbon.

    Trạm 3: Từ nguyên tố Cacbon và Oxi, hãy đặt các khối để tạo ra đúng số lượng nguyên tử trong CTHH của khí Cacbonic.

    Trạm 4: Sử dụng máy Compound Creator để tạo ra muối ăn.

    Trạm 5: Sử dụng máy Compound Creator để tạo ra nước.

    Trạm 6: Chơi trò chơi với bóng bay chứa khí Heli.

     

    Performance Expectations

    Phân biệt được một số chất và công thức hóa học của chúng.

    Nắm được cách sử dụng một số chất trong cuộc sống (Muối ăn, nước, Heli).

    Học sinh sử dụng được camera và porfolio để làm minh chứng trong báo cáo.

     

     

     

    Bốn nguyên tố hóa học mới đã có tên chính thức

    Sau năm tháng xem xét, Hiệp hội Hóa học Cơ bản và Ứng dụng Quốc tế (IUPAC) vừa công bố tên và kí hiệu chính thức của bốn nguyên tố siêu nặng 113, 115, 117 và 118 được tạo ra trong phòng thí nghiệm.

     src=

    Bốn nguyên tố mới đã có tên trên bảng tuần hoàn.

    Nguyên tố siêu nặng là những nguyên tố có số nguyên tử từ 104 đến 120. Chúng không xuất hiện trong tự nhiên mà phải được tạo ra trong phòng thí nghiệm.

    Theo truyền thống, tên gọi của nguyên tố sẽ vinh danh một địa điểm, vùng địa lí hoặc nhà khoa học với phần đuôi phải tuân thủ những chuẩn tắc liên quan đến vị trí của nó trong Bảng tuần hoàn các nguyên tố.

    Tên và ký hiệu chính thức của bốn nguyên tố mới như sau:

    Nguyên tố 113: nihonium (Nh);

    Nguyên tố 115: moscovium (Mc);

    Nguyên tố 117: tennessine (Ts);

    Nguyên tố 118: oganesson (Og).

    Hồi tháng Một, IUPAC đã công bố bốn nguyên tố này sẽ nằm trong Bảng tuần hoàn, dù chúng chưa được đặt tên. Sau đó, vào tháng Sáu, IUPAC đã công bố những cái tên chưa chính thức để xem phản hồi từ công chúng.

    Trong thời gian để ngỏ đó, những cái tên được đề xuất dường như không vấp phải ý kiến phản đối nào, nhưng điều đó không có nghĩa là công chúng thờ ơ.

    “Chúng tôi thật sự vui mừng khi nhận thấy có rất nhiều người quan tâm đến việc đặt tên cho những nguyên tố mới – các học sinh trung học viết bài luận về những cái tên khả thi và kể các em cảm thấy tự hào thế nào khi có thể tham gia vào cuộc thảo luận này,” Jan Reedijk, Trưởng ban Hóa học Vô cơ thuộc IUPAC, nói. “Giờ đây tất cả chúng ta có thể vui mừng vì bản tuần hoàn đã có dòng thứ bảy hoàn chỉnh”.

    Theo IUPAC, các nhà khoa học ở Trung tâm Khoa học dựa trên máy gia tốc Nishina thuộc Viện nghiên cứu RIKEN của Nhật Bản, đã đề xuất tên nihonium, một cách để nói “Nhật Bản” trong tiếng Nhật. Kosuke Morita và các đồng nghiệp của ông đã tạo ra nguyên tố này vào ngày 12/8/2012, sau khi thực hiện va chạm các hạt nhân kẽm vào một lớp bitmut mỏng.

    Giống như các nguyên tố siêu nặng khác, sau khi được tạo ra, nguyên tố 113 nhanh chóng bị phân rã, số nguyên tử của nó giảm xuống 111, 109, 107, 105, 103 và cuối cùng còn 101, Morita cho biết.

    Những cái tên dành cho nguyên tố 115 và 117 được đề xuất bởi những người tạo ra chúng tại Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân, Dubna, Nga; và Phòng thí nghiệm Quốc gia Oak Ridge, Tennessee; Đại học Vanderbilt, Tennessee; Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore, California – đều ở Mỹ. Hai tên gọi moscovium và tennessine đều gắn với địa danh nơi tiến hành các thí nghiệm liên quan đến việc tạo ra các nguyên tố mới.

    Tên gọi oganesson dành cho nguyên tố 118 vinh danh Yuri Oganessian “vì những đóng góp tiên phong của ông trong nghiên cứu những nguyên tố siêu nặng”, theo một quan chức của IUPAC. “Thành tựu phong phú của ông bao gồm việc tạo ra những nguyên tố siêu nặng và những bước tiến đáng kể trong vật lí hạt nhân của hạt nhân siêu nặng, trong đó có bằng chứng thực nghiệm về ‘đảo ổn định’, một ý niệm cho rằng các nguyên tố siêu nặng có thể trở nên ổn định tại một điểm nào đó trong sự tồn tại của chúng.

    Theo các nhà hóa học, mặc dù không có giới hạn nhất định cho số proton có thể được nén vào một hạt nhân nguyên tử, nhưng con số này càng nhiều thì nguyên tố càng kém ổn định. Còn IUPAC nhận định, vì hàng thứ bảy của Bảng tuần hoàn đã được hoàn thành với nguyên tố 118, các nhà hóa học sẽ tiếp tục nghiên cứu những nguyên tố nặng hơn thế.

    Vũ Thanh Nhàn dịch

    Nguồn:

    http://www.livescience.com/57050-4-new-superheavy-elements-names-approved.html

    danh sách các nguyên tố hóa học

    Mới đây các nhà khoa học ở Viện nghiên cứu Hạt nhân Dubna đã tổng hợp được nguyên tố số 112 ( Copernicium hay tiếng Việt là Copenixi) và chứng minh được là trong tự nhiên tồn tại các nguyên tố số 114 và 116.

    Tác dụng của các nguyên tố hóa học trong thép không gỉ, inoxthaiduong.com, CÔNG TY TNHH VẬT TƯ CÔNG NGHIỆP THÁI DƯƠNG

    Nguyên tố Chrom (Cr):

    Cr chính là nguyên tố làm cho thép không gỉ trở thành “không gỉ”. Chỉ cần một hàm lượng Cr tối thiểu là 10.5%, sẽ tạo nên một lớp màng tự động bảo vệ thép không gỉ. Lớp màng này bảo vệ thép không gỉ khỏi quá trình oxy hóa và nhiều loại acid khác nhau. Khả năng chống ăn mòn sẽ càng tăng cao khi hàm lượng Cr trong thép không gỉ càng lớn. Chính vì điều này mà các dòng thép không gỉ có những hàm lượng Cr khác nhau để phù hợp với những ứng dụng khác nhau.

    Ví dụ: như Austenitic là 18%, còn HPASS là 20-28% (Đây là mác theo chuyên dùng cho ngành không gian vũ trụ)

    Nguyên tố Niken (Ni):

    Niken chính là nguyên tố chính tạo ra và ổn định pha Austenitic hay nói cách khác là tạo ra dòng Inox Austenitic. Nếu không có 8% Niken, thì Inox 304 không còn là dòng Inox Austenitic và không thể có được những cơ tính tuyệt vời như trong thực tế, mà thay vào đó, nó sẽ trở thành một loại Inox trong dòng Inox Ferritic với một sự giới hạn về độ bền. Hàm lượng Cr trong thép càng cao, thì hàm lượng Niken cũng phải tăng tương ứng để duy trì pha Austenitic.

    Ví dụ: dòng Inox HPASS (High Performance Austenitic Stainless Steel) có hàm lượng Cr và Mo rất cao, vì thế hàm lượng Ferritic trongdòng Inox này lênđến 20% hoặc cao hơn để duy trì pha Austenitic.

    Ngoài ra, Niken còn làm tăng khả năng chống ăn mòn của thép không gỉ trước nhiều loại acid và tăng ứng suất ăn mòn lên 20%. Và Niken cũng làm giảm khả năng biến cứng của thép không gỉ trong quá trình biến dạng nguội.

    Nguyên tố Molypden (Mo):

    Molypden tăng khả năng chống rỗ bề mặt và ăn mòn ở các khe hở trong môi trường của Clo. Mo kết hợp với Chrom và Nitơ để tăng cường khả năng này. Molypden cũng góp phần tăng khả năng chống ăn mòn và giảm tác động của acid HCl và acid sunfuric H2SO4. Trong dòng Inox Austenitic thì hàm lượng của Mo chiếm tối thiểu là 2%, ví dụ như Inox 316. Còn trong dòng Inox HPASS thì hàm lượng này là 7.5% Mo. Mo góp phần vào việc hình thành pha Ferritic, lượng Mo càng cao thì việc hình thành pha Ferritic càng mạnh, hay nói cách khác thì hàm lượng Mo thì càng làm cho Inox trở thành dòng Inox Ferritic. Ngoài ra, sự tham gia của Molyden cũng làm giảm khả năng chống oxy hóa ở nhiệt độ cao của Inox. Vì vậy, người ta thường rất đắn đo khi thêm Molyden vào Inox.

    Nguyên tố Carbon (C):

    Cacbon góp phần làm tăng độ bền của Inox. Vì thế Cacbon là nguyên tố hữu dụng trong việc Inox được sử dụng để làm lò hơi hoạt động ở nhiệt độ cao. Ngoài ảnh hưởng tích cực này ra, thì Carbon không còn ứng dụng tích cực nào khác và Carbon còn góp phần làm giảm khả năng chống ăn mòn của Inox. Vì vậy, người ta phải giảm hàm lượng Carbon đến mức tối thiểu trong các hợp kim. Hàm lượng Carbon thấp được sử dụng trong các ứng dụng của việc gia công hàn.

    Ví dụ: như Inox 304L và Inox 316L, ở trong những Inox này người ta giới hạn hàm lượng Carbon tối đa là 0.03%. Còn ở trong một số hợp kim HPASS thì hàm lượng này là 0.02%.

    Nguyên tố Nitơ (N):

    Nguyên tố Nitơ góp phần làm ổn định và tăng độ bền cho Inox Austenitic. Ở một số mác Inox có hàm lượng Carbon thấp (0.01%) do độ bền thấp vì thiếu Cacbon, thì người ta phải thêm Nitơ vào để tăng độ bền. Nitơ cũng làm tăng khả năng chống rỗ bề mặt và ăn mòn ở khe hở trong môi trường Clorua. Vì vậy, trong dòng Inox HPASS thì hàm lượng Nitơ lên đến 0.5%.

    Nguyên tố Mangan (Mn):

    Người ta sử dụng Mangan để khử oxy trong Inox nóng chảy và còn được sử dụng như một phương pháp để làm ổn định pha Austenitic. Khi Mangan góp mặt thì điều này sẽ tăng sự hòa tan của Nitơ trong thép không gỉ. Vì vậy, Magan được thêm rất nhiều vào trong Inox HPASS để tăng hàm lượng của Nitơ, từ đó làm tăng độ bền và khả năng chống ăn mòn.

    Nguyên tố Đồng (Cu):

    Đồng làm tăng khả năng chống ăn mòn của Inox trong môi trường của các Acid như Acid Sunfuric và Acid Photphoric. Đồng được thêm vào một số mác Inox HPASS và giúp những mác này chuyên được sử dụng trong những môi trường như thế này.

    Nguyên tố Silic (Si):

    Cũng giống như Mangan thì Silic được dùng để khử Oxy trong thép nóng chảy. Ngoài tác dụng này thì Silic còn có những tác động tích cực lên chất lượng bề mặt như khả năng đánh bóng, khả năng hàn và khả năng chống ăn mòn Inox

    Nguyên tố Niobi, Columbi và Titan (Nb, Cb, Ti):

    Những nguyên tố này giúp Inox tăng bền ở nhiệt độ cao. Những mác Inox như 347 và 321 có chứa Nb và Ti thường được dùng trong việc chế tạo lò hơi và những ứng dụng về tinh luyện, ở những ứng dụng này người ta đòi hỏi Inox phải có độ bền và khả năng hàn tốt ở nhiệt độ cao. Ngoài ra, những nguyên tố này còn được dùng để khử oxy trong thép.

    Nguyên tố Lưu Huỳnh và Photpho (S, P):

    Lưu huỳnh có cả 2 tác động tích cực và tiêu cực đến tính chất của thép không gỉ. Một trong những ứng dụng quan trọng của Lưu Huỳnh là tăng khả năng cắt gọt của Inox trên máy công cụ, trong khi đó lại làm giảm khả năng gia công của Inox ở nhiệt độ cao. Dòng Inox HPASS về bản chất là rất khó gia công ở nhiệt độ cao, vì vậy người ta phải giới hạn hàm lượng Lưu Huỳnh xuống dưới 0.001%. Và Lưu Huỳnh không được sử dụng trong những hợp kim như thế này. Photpho không có tác dụng tích cực nào lên Inox và làm giảm khả năng gia công ở nhiệt độ cao của Inox trong quá trình rèn nguội và cán nóng. Và nó làm tăng khả năng gãy vỡ trong quá trình làm nguội sau khi hàn. Vì vậy người ta phải hạn chế hàm lượng này càng ít càng tốt.

    Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học




    Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học












    Nguồn: wikipedia

    Đăng ký để nhận ngay mẹo học Bảng Tuần Hoàn Nguyên Tố Hóa Học được thiết kế cực đẹp.

    Trạng thái ở nhiệt
    độ và áp suất tiêu chuẩn

    Tỷ lệ xuất hiện tự nhiên

    Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học của Mendeleyev ra đời từ giấc mơ?

    Đúng như vậy! Có một giấc mơ quan trọng đã xảy ra vào một đêm tháng 2/1869, liên quan đến “hiến pháp của vương quốc hóa học” – luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học.

     

    Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học của Mendeleyev ra đời từ giấc mơ?

    Lúc đó người ta mới phát hiện được 63 nguyên tố hóa học, nhưng còn chưa rõ chúng sắp xếp như thế nào.

    Các nhà khoa học luôn trăn trở, cho rằng nhất định các nguyên tố hóa học phải được sắp xếp thứ tự theo một quy luật nào đó. Giáo sư hóa học người Nga Dimitri Ivanovich Mendeleyev (1834-1907) lúc bấy giờ mới 35 tuổi, đã tìm tòi suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này.

    Một hôm, sự mệt mỏi khiến ông ngủ thiếp đi và ông đã mơ. Trong giấc mơ, Mendeleyev nhìn thấy một trang bảng biểu gồm nhiều ô, đồng thời lại thấy các nguyên tố hóa học đã lũ lượt theo nhau rơi vào từng ô thích hợp.

    Khi bừng tỉnh, ông vội ghi lại ý tưởng thiết lập bảng sắp xếp nguyên tố này. Tính chất của các nguyên tố cũng tăng theo sự tăng dần của số thứ tự nguyên tử trong các ô và xuất hiện biến hóa có quy luật. Trong bảng mà Mendeleyev thiết lập, với những nguyên tố chưa biết, ông để lại ô trống và rất nhanh sau đó đã có những nguyên tố mới tìm ra được điền bổ sung vào các ô trống này.

    Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học của Mendeleyev ra đời từ giấc mơ?

    Dự đoán của Mendeleyev về tính chất của các nguyên tố sắp xếp thứ tự theo quy luật trong bảng khiến người ta phải kinh ngạc, đó chính là bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học Mendeleyev.

    (Sưu tầm)

     

    Nguyên tố Hóa Học là gì và những ký hiệu Hóa Học thường dùng

    Nguyên tố Hóa Học là những nguyên tử có cùng số hạt proton trong hạt nhân

    Nguyên tố Hóa Học do có cùng số proton nên cùng số electron vì thế tính chất hóa học của nguyên tố hóa học sẽ có sự tương đồng với nhau.

    Mỗi nguyên tố được biểu diễn bằng 1 ký hiệu hóa học duy nhất. Ký hiệu này do tổ chức quốc tế quy ước và thông thường thì chúng ta lấy từ 1 tới 2 chữ cái ở đầu tên nguyên tố được phiên âm bằng tiếng Anh, tiếng La tinh hoặc sử dụng các tiếng khác như tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga . . .
    Cách biết một ký hiệu hóa học của một nguyên tố bắt đầu bằng chữ cái in hoa như Kali ký hiệu là K, Hidro ký hiệu là H. Nếu sau chữ cái đầu tiên vẫn còn sử dụng tiếp những chứ cái khác để đặt ký hiệu hóa học của một nguyên tố thì ta dùng chứ thường như Nhôm(Aluminium) nên có ký hiệu là Al, Natrium ký hiệu là Na . . .

    3. Có bao nhiêu nguyên tố Hóa Học

    Có tất cả 118 nguyên tố Hóa Học

    Hiện nay, khoa học ngày càng phát triển và con người chúng ta đã tìm ra được nhiều nguyên tố Hóa Học khác nhau và dựa trên khác nhau về số protom trong hạt nhân nguyên tử mà nhà khoa học Mendeleev đã hệ thống, sắp xếp lại những nguyên tố đó thành bảng tuần hoàn gọi là Bảng tuần hoàn các nguyên tố Hóa Học.
    Trong bảng tuần hoàn hiện đang có 118 nguyên tố hóa học khác nhau được phân chia thành nhiều nhóm khác nhau
    Nhóm Kim loại thì có Nhóm kim loại kiềm, Nhóm kim loại kiềm thổ, Nhóm kim loại B, Nhóm kim loại chuyển tiếp . . .
    Nhóm phi kim có Nhóm Halogen
    Nhóm khí hiếm
    Ngoài ra còn có họ Lantan, họ Actini là những nguyên tố phóng xạ

    Nguyên tử khối là khối lượng của một nguyên tử

    Vì khối lượng của một nguyên tử rất là nhỏ nên tổ chức đo lường thế giới lấy khối lượng của 1 nguyên tử cácbon làm đơn vị của nguyên tử khối.
    Tên gọi là đơn vị cácbon.
    Ký hiệu đvC
    Do mỗi nguyên tố khác nhau về số proton nên chúng sẽ có khối lượng nguyên tử khác nhau
    Đơn vị khối lượng nguyên tử cũng được ký hiệu là u
    Trong hệ đo lường quốc tế ta có:
    1u = 1/NA (gam) = 1/(1000 NA) kg
    NA hay còn gọi số Avogadro là số lượng nguyên tử có trong 12gam đồng vị Cacbon 12C hay còn gọi là số nguyên tử có trong 1 mol chất. Số Avogadro có đơn vị là 1/mol hay mol−1.

    Như vậy thì với cách tình trên ta có
    C = 12 đvC
    H = 1 đvC
    O = 16 đvC
    Ca = 40 đvC
    Na = 23 đvC
    K = 39 đvC
    . . . .

    Học hóa học phải nhớ ký hiệu nguyên tố Hóa học

    nguyen to hoa hoc can nho

    Để học tốt môn Hóa Học việc đầu tiên chúng ta phải nhớ được những nguyên tố Hóa Học cần thiết nhất vì trong phương trình phản ứng hóa học có ký hiệu nguyên tố hóa học, trong tính toán chúng ta cung cần phải biết được ký hiệu hóa học của nguyên tố để làm bài. Do vậy, ký hiệu nguyên tố Hóa Học là thiết yếu nhất, yêu cầu không thể không nhớ.
    Trước tiên, chúng ta cần phải thuộc những nguyên tố cơ bản nhất theo lộ trình như sau
    Buổi 1 cần học những gì?
    Nguyên tố kim loại

    Kali – [K] Khối lượng: 39
    Natri – [Na] Khối lượng: 23
    Bari – [Ba] Khối lượng: 137
    Canxi – [Ca] Khối lượng: 40
    Magie – [Mg] Khối lượng: 24

    Nguyên tố phi kim

    Flo – [F] Khối lượng: 19
    Clo – [Cl] Khối lượng: 35,5
    Iốt – [I] Khối lượng: 127

    Share
    Follow

    ABOUT US

    LEAF DESIGN® CO., LTD since 2015 | MST 0313737578

    Hotline: 09 666 235 04 | Email: leaf@leafdesign.vn

    "interior design & construction" Copyright © LEAF design | Appeared on FACEBOOK | INSTAGRAM | YOUTUBE | WEBSITE

    Loading...