Bánh xà phòng tắm 3,5 triệu bolivar, tương đương 0,53 USD

1kg thịt có giá 9,5 triệu bolivar (1,45 USD)

1 kg cà chua hết 5 triệu bolivar (0,76 USD)

Cuối cùng, 1 kg mì Ý được bán với giá 2,5 triệu bolivar (0,38 USD)

Theo B.P

Khái niệm lạm phát là gì? Nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát

1. Khái niệm lạm phát là gì?

Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát.

Nếu bạn không có nhiều kinh nghiệm trong việc viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp. Bạn cần đến dịch vụ làm đồ án thuê xây dựng để giúp mình xóa bỏ những rắc rối về lỗi gây ra khi không sử dụng thành thạo phần mềm này?

Khi gặp khó khăn về vấn đề viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp, hãy nhớ đến Tổng đài tư vấn luận văn 1080, nơi giúp bạn giải quyết những khó khăn mà chúng tôi đã từng trải qua.

Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự “ổn định giá cả”. Khái niệm lạm phát là gì? Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các quy luật về hàng hoá không được tôn  trọng, nhất là các quy luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm.

Trong bộ “ Tư bản” nổi tiếng của mình C.Mác viết: “ Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình”. Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị tiền giấy giảm  xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường: “Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian”.

Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/ GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn Ip = ∑ ip.d Ip: chỉ số giá cả của từng nhóm hàng d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng.

Khái niệm lạm phát là gì

 Khái niệm lạm phát là gì

Tham khảo thêm các bài viết sau:

+ Các công cụ của chính sách tiền tệ

+ Vai trò của tỷ giá hối đoái

Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá

2. Phân loại lạm phát

– Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%/1 năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này, nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn…. Có thể nói lạm phát vừa phải tạo nên tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này, các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.

– Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với cả tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm ở mức phi mã. Lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.

– Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng nhanh, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy ra.

Lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng: Lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn ra trong một thời gian dài, vì vậy hậu quả của nó thường phức tạp và trầm trọng hơn. Các nhà kinh tế học đã chia lạm phát thành 03 loại. Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50%/năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%/năm; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200%/năm.

3. Nguyên nhân gây ra lạm phát:

3.1 Lạm phát theo thuyết tiền tệ:

Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá…có nhiều nguyên nhân như: thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng cao. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá cả hàng tiêu dùng cũng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng dẫn theo các mặt hàng thiết yếu cũng tăng. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách:

– Theo lý thuyết tiền tệ: lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền.

– Theo học thuyết Kêyns: lạm phát xẩy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo).

– Theo học thuyết chi phí đẩy: lạm phát sinh ra do tăng về chi phí sản xuất (chi phí đẩy). Trên thực tế, lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau. Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong hằng đẳng thức tỷ lệ lạm phát, mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp.

Trong việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn luôn giảm sức cung tiền. Tăng cung tiền có thể đạt được bằng 2 cách:

* Ngân hàng Trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh doanh tốt).

* Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng. Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về trung và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2- 3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn tới lạm phát nghiêm trọng

Ví dụ: Năm 1966 – 1967 Chính phủ Mỹ đã sử dụng tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Lạm phát tăng từ 3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970). Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên một tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây là lý do tại sao ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này. 

Khái niệm lạm phát là gì? Nguyên nhân gây ra lạm phát

Khái niệm lạm phát là gì? Nguyên nhân gây ra lạm phát

 

3.2 Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát do cầu kéo):

Tăng cung tiền không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến tăng cầu về hàng hoá, dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm.

Nếu cầu về hàng hoá vượt mức cung xong sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được gia tăng của cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cẩu tăng lên hay lạm phát do cầu kéo được ra đời từ đó. Chẳng hạn ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ. Sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng.

3.3 Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy:

Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát “đình trệ”. Hình thức của lạm phát này phát sinh ra từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn.

Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ. Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo vòng xoáy lượng giá. Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thô. Trong giai đoạn  1972 -1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới.

Ngoài ra, sự suy sụp của giá dầu năm 1980 cũng làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy. Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý dân chúng, sự thay đổi về chính trị, an ninh quốc phòng…. Song yếu tố trực tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá sản xuất ra. Việc tăng đột ngột của thuế  (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá.

3.4 Lạm phát dự kiến:

Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vùa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử  của nó. Giá cả trong trượng hợp này tăng đều một cách ổn định. Mọi người có thể dự kiến được trước nên gọi là lạm phát dự kiến.

3.5 Các nguyên nhân lạm phát khác:

Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ tiền nhiều càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ gửi tiền vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi loại hàng hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá tiếp tục đẩy giá lên cao.

Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây lên lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách vay tiền của nhân dân thông qua hình thức bán tín phiếu, trái phiếu.

Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm phát, nếu thâm hụt ngân sách tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc và lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc chắn. Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu vào, nguyên nhân do nước ngoài. Chúc bạn học tập tốt hơn với bài viết “Khái niệm lạm phát là gì? Nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát” này!

Từ khóa tìm kiếm: khái niệm lạm phát là gì ,  định nghĩa lạm phát là gì, lạm phát ,  tìm hiểu khái niệm lạm phát là gì

Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và lạm phát

Xét trên khía cạnh lý thuyết, giữa chính sách tiền tệ và lạm phát có mối quan hệ chặt chẽ, đặc biệt là trong dài hạn. Tuy nhiên, thực tế tại các nước phát triển thời gian qua cho thấy, chính sách nới lỏng tiền tệ quy mô lớn có thể song hành cùng với lạm phát thấp. Nói cách khác, chính sách tiền tệ cũng có những giới hạn nhất định trong việc thúc đẩy lạm phát. Liệu điều này có đang xảy ra ở Việt Nam?

 src=

Ảnh minh họa


Xu hướng lạm phát thấp và giới hạn của chính sách tiền tệ




Sau giai đoạn lạm phát cao 2008-2011, kể từ giữa năm 2012 lạm phát tại Việt Nam đã được kiềm chế ở mức một con số (Hình 1).

 src=
Bên cạnh những tác động của giá xăng dầu giảm trên thị trường thế giới, những kết quả đạt được trong việc kiềm chế lạm phát có đóng góp rất lớn của công tác điều hành chính sách tiền tệ. Tốc độ tăng cung tiền thời gian qua đã được điều tiết hợp lý hơn nhiều so với từ năm 2010 trở về trước. Nếu như tốc độ tăng cung tiền M2 trung bình trong giai đoạn 2007-2010 ở mức hơn 30%, thì trong giai đoạn 2011-2015 đã giảm xuống còn 16,7%.

Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là kể từ cuối năm 2014 trở lại đây, lạm phát luôn ở mức dưới 2%, nếu không tính đến các đợt điều chỉnh giá bằng biện pháp hành chính. Điển hình là chỉ số giảm phát GDP trong năm 2015 đã giảm 0,2% (Hình 2), còn trong năm 2016 cũng chỉ tăng ở mức 1,1%.

Xu hướng lạm phát thấp trong 2 năm qua cho thấy, ở một mức độ nào đó, chính sách tiền tệ cũng đang gặp phải những giới hạn nhất định trong việc đưa lạm phát lên mức mục tiêu 4% mà Quốc hội đặt ra.  

Trên thực tế, mức tăng cung tiền M2 kể từ năm 2011 đến nay mặc dù thấp hơn nhiều so với giai đoạn trước đó và góp phần giảm lạm phát, nhưng không phải là quá thấp so với mức tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng cung tiền M2 trung bình giai đoạn 2011-2015 ở mức 16,7% là cao hơn tương đối nhiều so với mức tăng trưởng GDP trung bình là 5,91%. Điều này khiến tỷ lệ cung tiền M2/GDP liên tục tăng trong những năm qua.


Lạm phát thấp, mức tăng cung tiền không thấp 




Một trong các cách lý giải là tác động của việc tăng cung tiền đến lạm phát thường có độ trễ. Tiền được Ngân hàng Nhà nước cung ứng cho nền kinh tế có thể chảy vào các thị trường tài sản trước, sau đó mới tác động đến lạm phát thông qua hiệu ứng giá tài sản tăng, dẫn đến tăng tiêu dùng và đầu tư.

Mặc dù vậy, trong bối cảnh nợ xấu ở mức cao như hiện nay một phần lượng tăng cung tiền có thể được sử dụng để đảo nợ và do vậy không có tác động đến chi tiêu trên thực tế. Nói cách khác, một phần tăng cung tiền M2 có thể là “ảo”. Nếu vậy, tỷ lệ M2/GDP tăng thể hiện mức độ gia tăng nợ nần trong nền kinh tế nhiều hơn là thể hiện mức độ gia tăng trong chi tiêu.

 Đây có thể là một trong nguyên nhân chính khiến cho tăng trưởng kinh tế khó bứt phá, còn lạm phát ở mức thấp trong thời gian qua và có thể cả trong thời gian tới, nếu vấn đề nợ xấu không được giải quyết triệt để.

Nguyên nhân thứ hai khiến cho lạm phát thấp là lãi suất thực (lãi suất danh nghĩa trừ đi tốc độ lạm phát) đang ở mức cao trong lịch sử.

 src=
Theo Hình 2, có mối quan hệ nghịch chiều giữa tốc độ lạm phát GDP và mức lãi suất thực. Những năm 2008 và 2011 là những năm lạm phát cao đi kèm với lãi suất thực âm, trong khi các năm 2001 và 2015 là những năm có lãi suất thực dương cao lại đi kèm với mức lạm phát thấp. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới được trình bày tại Hình 2, lãi suất thực tại Việt Nam năm 2015 đã ở mức trên 7%, cao hơn cả mức 6,5% vào năm 2001.

Như vậy, có thể thấy rằng, để đưa lạm phát lên mức mục tiêu 4%, điều kiện tiên quyết là phải tăng tổng mức chi tiêu trong nền kinh tế. Nhưng với mức nợ lớn của khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình hiện nay, thể hiện qua tỷ lệ M2/GDP năm 2015 lên tới 143,6% (Hình 1) cùng với mức lãi suất thực ở mức cao, khu vực tư nhân nhiều khả năng sẽ phải tập trung vào việc vay để trả nợ chứ không phải vay để chi tiêu, thậm chí ngay cả việc trả nợ cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Trong thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều nỗ lực để giảm mặt bằng lãi suất, chẳng hạn như áp trần lãi suất huy động hay hỗ trợ lãi suất đối với một số lĩnh vực nhưng kết quả vẫn còn hạn chế, bởi những nguyên nhân cơ bản dẫn đến lãi suất cao là do tình trạng đô la hóa, cũng như nợ công và nợ xấu ở mức cao.

Nếu người dân chưa sẵn sàng nắm giữ VND lâu dài và gửi vào hệ thống ngân hàng, lãi suất sẽ khó giảm, bởi cung tiền từ Ngân hàng Nhà nước chủ yếu mang tính  ngắn hạn và không thể thay thế hoàn toàn tiền gửi dài hạn của người dân để tài trợ cho các khoản vay đầu tư thường cũng có kỳ hạn dài.

Trong khi đó, mức nợ cao và áp lực trả nợ lớn khiến các ngân hàng thương mại và Chính phủ phải tăng lãi suất huy động, thậm chí có lúc thiếu thanh khoản phải vay mượn với bất kỳ giá nào nếu không muốn vỡ nợ.

Tóm lại, bên cạnh tình trạng đô la hóa, quy mô nợ trong nền kinh tế ở mức cao là nguyên nhân chính dẫn đến lãi suất thực cao, mức tăng chi tiêu thấp và kết quả là cả tăng trưởng và lạm phát đều thấp. Nếu không giải quyết triệt để vấn đề nợ nần trong nền kinh tế, tình trạng này nhiều khả năng sẽ còn kéo dài trong thời gian tới.


Lựa chọn nào cho chính sách tiền tệ?




Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước không có sự lựa chọn dễ dàng để giảm tình trạng đô la hóa, giảm quy mô nợ công cũng như nợ xấu, từ đó giảm lãi suất và kích thích tăng trưởng cũng như lạm phát.

 src=
Nếu cho phép huy động và cho vay bằng ngoại tệ, tình trạng đô la hóa sẽ không thể giải quyết triệt để, nhất là trong bối cảnh đồng USD trên thế giới có xu hướng tăng giá dưới tác động của việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) thắt chặt tiền tệ. Mặc dù, một số doanh nghiệp có thể vay được USD với mức lãi suất thấp, nhưng nhiều doanh nghiệp khác sẽ phải vay VND với lãi suất cao bởi lượng cung VND trên thị trường sẽ giảm khi nguồn cung USD tăng.

Đó là chưa kể việc găm giữ USD thường đi kèm với các cuộc đầu cơ (chuyển đổi VND sang USD và ngược lại) khiến cho tỷ giá và lãi suất trở nên bất ổn. Bởi vậy, việc Ngân hàng Nhà nước vẫn kiên trì với chính sách trần lãi suất tiền gửi bằng USD ở mức 0%, đồng thời đảm bảo sự ổn định của tỷ giá VND/USD vẫn là chiến lược hợp lý, bởi nó sẽ khiến nhiều người nắm giữ USD sẽ nản lòng, lượng USD găm giữ trong nền kinh tế sẽ giảm dần, người dân và doanh nghiệp sẽ nắm giữ VND nhiều hơn với kỳ hạn dài hơn để gửi vào các ngân hàng thương mại, từ đó tạo điều kiện cho việc giảm lãi suất huy động và cho vay bằng VND. Tất nhiên, chiến lược này đòi hỏi tương đối nhiều thời gian.

Về giảm thâm hụt ngân sách và nợ công, mặc dù các tác động về dài hạn là tích cực khi khiến áp lực vay và trả nợ giảm trong tương lai, nhưng trong ngắn hạn, đầu tư công và tăng trưởng kinh tế có thể phải chịu ảnh hưởng tiêu cực.

Vấn đề khó khăn nhất để giảm thâm hụt NSNN và nợ công là phải cắt giảm bộ máy và chi thường xuyên, từ đó có thêm nguồn lực cho đầu tư. Giải pháp này gặp nhiều khó khăn.

Về xử lý nợ xấu, bên cạnh những bất cập liên quan đến các quy định pháp lý cho việc mua bán, chuyển đổi sở hữu đối với tài sản thế chấp, vấn đề nguồn lực cũng rất quan trọng. Nợ xấu là một khoản thiệt hại. Nếu xử lý theo nguyên tắc thị trường, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và người gửi tiền tiết kiệm sẽ phải chịu thiệt hại.

Phương án thứ hai là ngân sách nhà nước đứng ra gánh trách nhiệm đối với các khoản thiệt hại. Trong bối cảnh nợ công đang tiến sát mức trần 65% GDP, phương án này khó khả thi về mặt nguồn lực. Hơn nữa, việc sử dụng tiền thuế của dân để xử lý nợ xấu cũng gây phản ứng trong xã hội và Chính phủ đã tuyên bố không áp dụng phương án này.

Trong thời gian tới, phương án có tính khả thi hơn cả là Ngân hàng Nhà nước sẽ tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại đã mua với giá 0 đồng để xử lý nợ xấu. Nếu phương án này được áp dụng, nợ xấu sẽ giảm và tạo điều kiện cho việc giảm lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay. Triển vọng lạm phát đạt mức mục tiêu 4%, vì thế, sẽ khả quan hơn.   


Tài liệu tham khảo:




1. ADB. Key Indicators for Asia and the Pacific 2016;

2. Ngân hàng Thế giới, http://data.worldbank.org;

3. Nguyễn Đức Độ, Xu hướng lạm phát năm 2017, Tạp chí Tài chính, số 1+2/2017, trang 63-66;

4. Tổng cục Thống kê, Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la từ tháng 1/2008 đến tháng 2/2017.

Lạm phát là gì? Nguyên nhân, bản chất và hậu quả của lạm phát

Tại một vùng lãnh thổ, nếu xuất hiện tình trạng lạm phát sẽ khiến nền kinh tế và cuộc sống của người dân ở đó trở nên rất khó khăn. Hiện nay, lạm phát đang là nỗi nhức nhối tại nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Nếu bạn đang muốn tìm hiểu khái niệm lạm phát là gì, nguyên nhân, bản chất cùng hậu quả của nó như thế nào? Hãy cùng VN24h.info tìm hiểu những thông tin đáng chú ý ngay sau đây.

Định nghĩa lạm phát là gì trong kinh tế vĩ mô

Trong kinh tế vĩ mô, định nghĩa lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó (Wikipedia). Đối với những nền kinh tế khác, lạm phát chính là sự hạ giá (mất giá) loại tiền nội tệ, để so sánh với những loại tiền ngoại tệ khác.

Lạm phát là gì?
Lạm phát chính là tình trạng đưa giá cả của nhiều mặt hàng tăng lên cao hơn so với khoảng thời gian trước đây

Lạm phát được chia làm 3 mức độ chính:

Mức độ 1: Lạm phát tự nhiên từ 0 đến 10%, tỷ lệ này luôn luôn ổn định trên thị trường. Điều này dẫn đến việc giá cả của sản phẩm tăng ít, tuy nhiên vẫn có thể theo dõi và chiều chỉnh được.

Mức độ 2: Lạm phát phi mã từ 10% đến dưới 1000%, với tỷ lệ này việc lạm phát xảy ra mỗi năm sẽ là khoảng 2 hoặc 3 chữ số, đồng tiền sẽ bị mất giá trầm trọng, dẫn đến việc không đem lại được lợi nhuận, thậm chí còn thua lỗ.

Mức độ 3: Siêu lạm phát trên 1000%, tỷ lệ siêu lạm phát sảy ra thì đồng tiền sẽ mất giá hoàn toàn trên thị trường và dẫn đến việc tài chính bị khủng hoảng.

Lạm phát được chia thành nhiều mức độ khác nhau
Lạm phát được chia thành nhiều mức độ khác nhau

Nguyên nhân của tình trạng lạm phát

Lạm phát là gì? Nguyên nhân của nó là do đâu? Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát trên thế giới điển hình như:

  1. Lạm phát do cầu kéo

Khi thị trường ưa chuộng một mặt hàng nào đó, nhu cầu mua cao khiến giá thành của mặt hàng đó sẽ tăng lên theo. Từ đó sẽ dẫn đến việc cầu kéo từ những sản phẩm khác có trên thị trường.

  1. Lạm phát do chi phí đẩy

Những chi phí bước đầu của doanh nghiệp như: Máy móc, bảo hiểm, tiền lương bổng, nguyên liệu sản xuất… đều được xem là chi phí đẩy của các doanh nghiệp. Tuy nhiên khi giá thành của các công đoạn sản xuất tăng lên, tương đương với việc giá thành của sản phẩm đó cũng sẽ tăng theo để mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Chi phí sản xuất tăng làm lạm phát xuất hiện
Chi phí sản xuất tăng làm lạm phát xuất hiện
  1. Lạm phát do cầu thay đổi

Khi lượng nhu cầu của khách hàng giảm đi đối với một mặt hàng, nhưng lại tăng so với mặt hàng khác. Thì giá thành của các sản phẩm bị giảm nhu cầu sẽ không bị ảnh hưởng, tuy nhiên những mặt hàng tăng nhu cầu thì giá thành lại tăng cao.

  1. Lạm phát do xuất khẩu

Khi lượng hàng hóa được xuất khẩu ra nước ngoài tăng cao, do nhu cầu tăng lên dẫn đến việc cung cấp hàng hóa gặp trở ngại. Số lượng sản phẩm được xuất khẩu đi các nước khác cao hơn, đồng nghĩa với việc sản phẩm đó trong thị trường nội địa sẽ giảm đi. Dẫn đến tình trạng rối loạn cung và cầu sản phẩm, khiến tình trạng lạm phát diễn ra.

  1. Lạm phát do nhập khẩu

Trái ngược với lạm phát do xuất khẩu, nhu cầu sử dụng sản phẩm trong nước ít hơn lượng sản phẩm được làm ra dẫn đến tình trạng mất cân bằng.

  1. Lạm phát tiền tệ

Nguyên nhân gây lạm phát do tiền tệ là khi lượng cung của tiền lưu hành trong nước tăng lên nhiều so với thời gian trước mà không được tính toán, kiếm soát một cách chặt chẽ.

Một phần của lạm phát là do lượng cung của tiền lưu hành trong nước tăng lên
Một phần của lạm phát là do lượng cung của tiền lưu hành trong nước tăng lên

Bản chất của lam phát là gì?

Lạm phát là gì chúng ta đã đần hiểu, vậy bản chất của lạm phát thì sao?

Bản chất của lạm phát được thể hiện ở việc tăng giá trị hàng hóa lên khiến người mua gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, lạm phát lại làm tăng nguồn thu nhập “danh nghĩa”.

Hậu quả của lạm phát 

Lạm phát là gì? Nguyên nhân, bản chất và hậu quả của lạm phát
Lạm phát gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống

Trên đây là những thông tin giúp các bạn hiểu rõ hơn về khái niệm lạm phát là gì mà chúng tôi muốn chia sẻ. Hy vọng với những kiến thức này, bạn sẽ hiểu thêm về vấn đề lạm phát trong kinh tế vĩ mô. Cảm ơn các bạn đã dành chút thời gian theo dõi bài viết.

Nhìn nhận khách quan và thấu đáo vấn đề lạm phát ở Việt Nam

Từ năm 2007 đến nay, kinh tế thế giới diễn biến phức tạp và khó lường, nhất là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động sâu, rộng đến tình hình kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Với những bước đi phù hợp, kịp thời của toàn hệ thống chính trị, nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao, với mức bình quân đạt khoảng 7%. Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 5 năm qua cũng tăng ở mức cao, ảnh hưởng lớn đến mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững và bảo đảm an sinh xã hội của đất nước.

Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam giai đoạn 2007-2011

 Đơn vị: %

                      src=

(Nguồn: số liệu công bố của Tổng cục Thống kê)

1. Các nhân tố chủ yếu tác động đến lạm phát ở Việt Nam

1.1 Lạm phát chi phí đẩy

– Giá cả hàng hóa thế giới tăng: Với tỷ trọng XNK/GDP đạt 160% GDP, tỷ lệ nhập khẩu/GDP khá cao ở mức trên 80%, có thể nói Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở cửa lớn. Cùng với đó, Việt Nam thuộc nhóm các nền kinh tế có mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu lớn nhất khu vực, cơ cấu chi phí sản xuất phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu. Do vậy, ảnh hưởng của mặt bằng giá thế giới tới giá cả hàng hóa trong nước là điều không tránh khỏi. Giai đoạn 2006 – 2011, chỉ số hàng hóa thế giới chung tăng 132%, giá năng lượng tăng 90,9%, giá lương thực tăng 151,2%; với độ mở cửa nền kinh tế lớn và tỷ lệ nhập khẩu/GDP cao, những biến động về giá thế giới sẽ tác động tới nền kinh tế nước ta trên diện rộng hơn so với các nước. Giá trên thị trường quốc tế tăng tác động đến giá cả trong nước qua hàng hóa nhập khẩu, đồng thời cũng ảnh hưởng đến giá cả những loại hàng hóa vừa xuất khẩu vừa tiêu thụ trong nước, đặc biệt là hàng hóa nông sản, đã góp phần làm tăng mặt bằng giá chung trong nước.

– Cơ cấu kinh tế chưa hợp lý: Bên cạnh nguyên nhân giá hàng hóa thế giới tăng, thì cơ cấu bên trong nền kinh tế cũng tác động làm tăng chi phí sản xuất, cụ thể:

Một là, chi phí sản xuất của nền kinh tế cao. Chi phí năng lượng cho một đơn vị GDP, mặc dù giảm xuống từ năm 2006 đến 2010, nhưng vẫn tương đối cao so với các nước trong khu vực. Theo thống kê của WB, chi phí năng lượng để tạo ra 01đô la Mỹ GDP của Việt Nam giảm từ 0,119 wat năm 2006 xuống 0,065wat năm 2010, trong khi đó, Trung Quốc giảm từ 0,064 wat xuống 0,041wat, Ấn Độ giảm từ 0,046 wat xuống 0,029 wat, Thái Lan giảm từ 0,027 xuống 0,023. Chi phí vận chuyển cao do kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông còn chưa phát triển. Theo thống kê của WB, chất lượng cơ sở hạ tầng của Việt Nam xếp thứ 66, trong khi đó Trung Quốc xếp thứ 27, Ấn Độ 47, Thái Lan 36. Tiền lương tối thiểu được điều chỉnh tăng trong mấy năm qua phần nào trực tiếp làm tăng chi phí sản xuất, qua đó ảnh hưởng đến CPI.

Hai là, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa trên mở rộng đầu tư, sử dụng nhiều vốn, trong khi hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp. Chỉ số ICOR năm 2008: 6,3; năm 2009: 7,16; năm 2010: 5,61; cao hơn nhiều so với mức 3-4 của các nước trong khu vực. Nguyên nhân của tình hình trên, là do cơ cấu đầu tư đang có xu hướng chuyển dịch và tập trung vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, cung cấp các loại dịch vụ thương mại, khách sạn, bất động sản… đây không phải là những ngành kinh tế có lợi thế cạnh tranh và có độ lan tỏa cao. Trong khi đó, các ngành công nghệ cao có khả năng dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại lại không đáng kể.

Ba là, hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả (trong khi tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào khu vực này), làm cho chi phí sản xuất, giá thành và giá vốn tăng cao. Qua báo cáo, chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu của 81 tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2010 chỉ đạt khoảng 14,2%, thấp hơn nhiều so với lãi suất vay ngân hàng hiện nay. Những hạn chế trong công tác quản lý của khu vực này thể hiện: chưa minh bạch hóa hoạt động và công khai thông tin; chủ sở hữu nhà nước chưa thực sự trở thành một nhà đấu tư; chưa chuyên nghiệp theo kinh tế thị trường; công tác giám sát còn thiếu tách bạch giữa quản lý và điều hành, giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát.

Bốn là, việc đầu tư tràn lan, dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, dẫn đến hiệu quả đầu tư không cao và tạo gánh nặng về vốn cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc triển khai cùng một lúc nhiều chương trình tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và tín dụng chính sách với lãi suất ưu đãi, trong khi hiệu quả đầu tư thấp cũng làm tăng thêm chi phí vốn cho nền kinh tế.

Chi phí năng lượng (than và điện) cho một USD GDP, wat

 src=

(Nguồn: Ngân hàng Thế giới – WB)

– Đồng Việt Nam mất giá so với USD trong nhiều năm qua cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hàng hóa trong nước, tác động đáng kể đến lạm phát. Trong giai đoạn 2006 – 2010, tỷ giá tăng 21,2%. Với cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam, trong đó xuất khẩu phụ thuộc vào hàng nhập khẩu từ nước ngoài và với tỷ trọng nhập khẩu/GDP cao thì việc đồng Việt Nam mất giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức giá cả trong nước.

– Giá vàng thế giới liên tục tăng ở mức hai chữ số kể từ năm 2009 đến nay, cộng thêm yếu tố tâm lý, đầu cơ, đã đẩy giá vàng trong nước tăng mạnh và nhiều thời điểm tăng nhanh hơn tốc độ tăng của giá vàng thế giới (có thời điểm chênh lệch giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới trên 3 triệu đồng/lượng), khiến cho nhu cầu nhập khẩu vàng gia tăng và tạo sức ép lớn lên tỷ giá. Diễn biến này tác động đến tâm lý và lòng tin của người dân vào đồng nội tệ, dẫn đến lạm phát có xu hướng tăng theo hình xoắn ốc. Với mức tăng 64,32% trong năm 2009, 30% trong năm 2010 và 15,33% trong 8 tháng đầu 2011, giá vàng trong nước đã tác động không nhỏ đến tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam trong những năm qua.

1.2 Nguyên nhân về phía tổng cầu

– Việc nới lỏng cung tiền và tăng trưởng tín dụng trong một thời gian dài là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao ở nước ta.

Tốc độ tăng cung tiền M2 của Việt Nam khá cao so với các nước trong khu vực. Trong giai đoạn 2000 – 2010, tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam đạt mức 31,4%, trong khi đó của Trung Quốc là 17,8%, Inđônêxia 13%, Malaysia 8,7%, Thái Lan 6,2%. Do cung tiền tăng nhanh nên tỷ lệ cung tiền M2 trên GDP của Việt Nam tăng lên rất nhanh. Nếu như năm 2000 tỷ lệ này ở mức dưới 60%, thì đến cuối năm 2010 đã lên đến trên 130%. Trong giai đoạn 2007-2010, M2 của Việt Nam đã tăng 2 lần, trong khi đó, GDP danh nghĩa tăng 1,73 lần và GDP thực tế tăng 1,20 lần.

Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam cũng luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Trong giai đoạn 2007 – 2010, tín dụng bình quân tăng 30,6%/năm. Hệ số dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã tăng từ 40% năm 2000, lên mức 116,14% năm 2010 (gần 3 lần). Ở Trung Quốc, hệ số này tăng 1,23 lần, Thái Lan và Malaysia hầu như không tăng. Chính việc tăng trưởng tín dụng nhanh là nguyên nhân dẫn đến M2 tăng cao. Mặc dù tăng trưởng tín dụng đã giúp tăng mức đầu tư trên GDP từ 29,8% trung bình giai đoạn 1991 – 2000, lên 40,7% trung bình giai đoạn 2001 – 2010, nhưng không phải toàn bộ lượng tín dụng tăng lên này được đưa vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nhằm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế.

So sánh giữa tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng cung tiền của các nước trong khu vực cho thấy, lạm phát có xu hướng tăng khi tốc độ tăng cung tiền tăng. Do đó, có thể nói rằng, cung tiền tăng nhanh là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao của Việt Nam trong một thập kỷ qua.

Tốc độ tăng trưởng tiền tệ, tín dụng của Việt Nam thời kỳ 2001-2011

(So với tháng 12 năm trước)

Đơn vị: %

 

 src=

(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

– Bội chi ngân sách từ năm 2006 đến nay luôn ở mức cao trên 5% GDP (trừ năm 2008 đạt 4,6%), gây áp lực lên lạm phát.

Trong tổng chi ngân sách, tỷ trọng chi cho đầu tư, chi cho lĩnh vực xã hội luôn ở mức khá cao, nhất là chi cho đầu tư công. Đặc biệt trong giai đoạn 2009 – 2010, nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, đầu tư công tăng rất cao, gây sức ép làm tăng tổng cầu.

Đồng thời, để bù đắp thâm hụt ngân sách, Chính phủ phải huy động nhiều hơn nguồn vốn trong xã hội thông qua việc phát hành trái phiếu, tín phiếu Kho bạc. Việc phát hành trái phiếu, tín phiếu này sẽ không tác động làm thay đổi M2 nếu được bán cho công chúng (hộ gia đình và doanh nghiệp). Nhưng thực tế số trái phiếu này hầu hết bán cho tổ chức tín dụng và các tổ chức tín dụng sử dụng để chiết khấu hoặc bán cho Ngân hàng Nhà nước qua nghiệp vụ thị trường mở, theo đó đã trở thành một nhân tố làm tăng M2.

1.3 Một số nguyên nhân khác: Ngoài những nguyên nhân như đã nêu, lạm phát của Việt Nam gia tăng còn do:

– Trong điều hành chính sách, việc ghìm giữ quá lâu giá của những loại hàng hóa quan trọng như xăng dầu, điện, than… làm thu hẹp không gian

chính sách, đến khi buộc phải thực hiện xóa bỏ bao cấp thì lại dồn dập vào một thời điểm, gây hiệu ứng tâm lý, làm giảm hiệu quả của các giải pháp kiềm chế lạm phát.

– Tình trạng phát triển quá nóng của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, tình trạng đô la hóa, vàng hóa nghiêm trọng, khiến cho một lượng vốn lớn của xã hội không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất hàng hóa để cân đối với với nguồn tiền; đồng thời gây ra những cơn sốt giá và lan tỏa sang giá các mặt hàng khác, góp phần làm tăng lạm phát.

– Chính phủ điều chỉnh tăng lương tối thiểu, làm tăng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp và lạm phát kỳ vọng: Tiền lương liên tục được điều chỉnh trong những năm qua nhằm bảo đảm điều kiện sinh hoạt cho người lao động, cán bộ, công chức và các đối tượng hưởng lương ngân sách trong bối cảnh lạm phát cao. Bình quân giai đoạn 2006 – 2010, mức lương danh nghĩa của cán bộ, công chức tăng bình quân 16,18%/năm, làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, giá thành…; đồng thời làm tăng thu nhập và thu nhập kỳ vọng, tiêu dùng tăng. Do đó, mặc dù điều chỉnh lương thường diễn ra theo sau lạm phát, nhưng cũng có tác động đến chỉ số giá CPI và mặt bằng giá ở kỳ tiếp theo.

– Do yếu tố tâm lý: Yếu tố tâm lý tác động đến giá cả, lạm phát ở nước ta mạnh hơn các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là nguyên nhân có tính lịch sử, do nước ta đã từng rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Khi kinh tế vĩ mô bất ổn, các mục tiêu kinh tế quan trọng không đạt được, phát sinh các biến cố lớn hoặc thông tin chính sách thiếu rõ ràng, thì sẽ làm gia tăng lạm phát kỳ vọng và trở thành lạm phát tâm lý, tức là tình trạng người dân phản ứng một cách thái quá trước những biến động của thị trường và qua đó đẩy lạm phát cao hơn so với mức lạm phát được hình thành do các nhân tố kinh tế.

2. Một số giải pháp kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô trước mắt và lâu dài

2.1 Trong ngắn hạn:

– Kiên định điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa chặt chẽ để giảm tổng cầu của nền kinh tế, ổn định giá trị đồng Việt Nam. Kiểm soát tổng phương tiện thanh toán tăng 15 – 16%, tăng trưởng tín dụng dưới 20% và sẽ hiệu quả hơn nếu đạt được mức tăng trưởng tín dụng khoảng 16%. Cần chú trọng điều phối hợp lý lượng tiền tín dụng, tránh tình trạng lượng tín dụng cuối năm tăng cao đột biến.

Đối với chính sách tài khóa, kinh nghiệm các nước cho thấy, giải pháp kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn chủ yếu vẫn là chính sách tiền tệ thắt chặt. Tuy nhiên, dư địa để tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ còn rất hạn hẹp, nên việc kiềm chế lạm phát trong thời gian tới sẽ phụ thuộc nhiều vào chính sách tài khóa; trong đó yếu tố then chốt là việc nghiêm túc thực hiện cắt giảm đầu tư công, giảm chi thường xuyên và giảm bội chi ngân sách theo tinh thần Nghị quyết 11/NQ-CP.

– Thực hiện các biện pháp nhằm ổn định tâm lý và cải thiện lòng tin của công chúng đối với chính sách kinh tế vĩ mô, hạn chế lạm phát kỳ vọng. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và minh bạch hóa các chính sách, đưa ra cam kết chính sách rõ ràng và thực thi chính sách có hiệu quả.

– Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu trong những tháng cuối năm 2011, nhất là những mặt hàng hạn chế nhập khẩu hoặc không khuyến khích nhập khẩu.

– Tiếp tục lộ trình xóa bỏ tình trạng vàng hóa, đô la hóa, làm giảm sức ép phá giá đồng Việt Nam. Duy trì và phát huy kết quả đạt được trong thời gian qua.

2.2 Trong dài hạn

Trong dài hạn, giải pháp căn bản để kiềm chế lạm phát là cần kiểm soát tổng cầu đảm bảo tương thích với các cân đối của nền kinh tế, đồng thời triển khai đồng bộ các giải pháp để khai thông các nguồn lực nhằm nâng cao sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế cao hơn vào những năm tiếp theo. Một số giải pháp cụ thể:

1. Nhóm giải pháp kiểm soát tổng cầu:

– Cần đổi mới việc xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch: Hàng năm, cần có tính toán mức tăng sản lượng tiềm năng để có cơ sở lựa chọn mục tiêu tăng trưởng GDP phù hợp. Mức tăng trưởng của nền kinh tế không nên vượt quá sản lượng tiềm năng nhằm tránh tăng trưởng kinh tế quá nóng, để từ đó làm cơ sở xây dựng mục tiêu tăng trưởng tín dụng, tiền tệ, tài khóa cũng như các cân đối khác của nền kinh tế.

– Việc điều hành chính sách tiền tệ phải tạo tín hiệu cho người dân nhận thức rõ Chính phủ sẽ quyết tâm duy trì một tốc độ lạm phát ổn định, qua đó làm giảm lạm phát kỳ vọng của dân chúng, cũng như lạm phát thực tế. Vì vậy, cần chuyển đổi phương thức hoạch định chính sách tiền tệ theo hướng áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu, để đảm bảo nhiệm vụ ổn định giá cả. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước cam kết duy trì tốc độ lạm phát ở một mức độ nhất định.

Điều kiện cần thiết để áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu là: phải xác định rõ vai trò quan trọng nhất của Ngân hàng Nhà nước là kiềm chế lạm phát chứ không phải tăng trưởng GDP; Công khai, minh bạch các chỉ tiêu tiền tệ như cung tiền, tín dụng, lãi suất…; Tăng cường năng lực dự báo lạm phát. Hiện nay, các biện pháp kiềm chế lạm phát thường được quyết định khi lạm phát đã cao, khi kỳ vọng về lạm phát của dân chúng đã cao, khiến cho việc kiềm chế lạm phát càng thêm khó khăn.

– Chính phủ cần có giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường vốn, tạo điều kiện để các doanh nghiệp khai thác các nguồn lực xã hội, hạn chế phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng làm gia tăng tín dụng.

– Nâng cao hiệu quả đầu tư công, tăng cường phân cấp và kiểm soát kỹ đầu tư công, kể cả vốn ngân sách, vốn trái phiếu Chính phủ và tín dụng nhà nước. Thực hiện cam kết chi đầu tư trong phân bổ vốn đầu tư nhà nước hàng năm nhằm tránh tình trạng phân tán, kéo dài, kém hiệu quả trong các dự án đầu tư. Nâng cao hiệu quả sử dụng và minh bạch hóa Ngân sách Nhà nước.

2. Nhóm giải pháp tái cấu trúc nền kinh tế:

– Thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện các chính sách tái cấu trúc nền kinh tế để xử lý những yếu kém cố hữu, hạn chế hiệu quả thực hiện các chính sách tổng cầu và tổng cung, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo nền tảng cho việc chuyển dịch mô hình tăng trưởng kinh tế nêu trên.

– Thực hiện quyết liệt tái cơ cấu sâu rộng và tổng thể toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cổ phần hóa đi kèm với việc đổi mới và nâng cao chất lượng quản trị trong doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện nhanh việc cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế có lợi thế thị trường nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đối với khu vực doanh nghiệp.

– Đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa. Hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nguyên liệu nhập khẩu đầu vào, do đó chi phí sản xuất và giá trong nước cũng biến động theo giá thế giới và tỷ giá hối đoái. Do đó, cần điều chỉnh cơ cấu sản xuất, chuyển đổi mô hình tăng trưởng nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất.

3. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền gắn với nâng cao ý thức trách nhiệm, vì cộng đồng của doanh nghiệp và người dân, khắc phục triệt để nguyên nhân lạm phát do yếu tố tâm lý.

Từ tháng 6/2011, tốc độ tăng CPI của nước ta đã hạ nhiệt. Tuy nhiên, với mục tiêu tổng quát trong giai đoạn 2011 – 2015 là phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh vừa được Hội nghị trung ương 3 – Khoá XI của Đảng xác định; trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong phát triển kinh tế – xã hội năm 2012, thì việc xây dựng và thực thi có hiệu quả các giải pháp kiềm chế lạm phát luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn hệ thống chính trị trong năm 2012 và các năm tiếp theo.

Lạm phát là gì? Các nguyên nhân và bản chất của lạm phát ở Việt Nam và


Theo kinh tế học, lạm phát là tình trạng tăng giá cả trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học thường sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số thu nhập quốc dân để diễn giải vấn đề này. Vậy cụ thể lạm phát là gì? Nguyên nhân nào gây ra tình trạng lạm phát? Hãy cùng chúng tôi tham khảo bài viết dưới đây để lý giải những vấn đề trên.

1. Lạm phát là gì?

Lạm phát tiếng Anh là inflation. Nó là sự gia tăng giá bán chung của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ, dẫn đến sự mất giá của một đơn vị tiền tệ nhất định. Khi mức giá chung tăng cao thì cùng một số tiền, người tiêu dùng sẽ mua được lượng hàng hóa/dịch vụ ít hơn so với trước đây. Do vậy, lạm phát chính là tấm gương phản chiếu sự suy giảm sức mua của thị trường tính theo một đơn vị tiền tệ nhất định.

lam phat la gi cac nguyen nhan gay ra lam phat

Bản chất của lạm phát là gì?

Lạm phát được chia thành 3 cấp độ là:

– Lạm phát tự nhiên: 0 – 10%
– Lạm phát phi mã: 10 – dưới 1000%
– Siêu lạm phát: Trên 1000%

Thực tế, hầu hết các quốc gia đều kỳ vọng lạm phát dưới mức 5% – cấp độ lạm phát tự nhiên. Nếu như một quốc gia có mức tăng trưởng kỳ vọng một năm là 10% thì có nghĩa, đồng tiền của quốc gia đó mất giá 5% và họ chỉ có mức tăng trưởng thật sự là 5%.

2. Một số ví dụ về lạm phát

Nền kinh tế Hy Lạp năm 1944, Đức năm 1923, Yugoslavia năm 1994, Zimbabwe năm 2008 và Hungary năm 1946 là những ví dụ về lạm phát rõ ràng nhất. Đó là những trường hợp siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử, ảnh hưởng của lạm phát làm cho giá trị của hàng hóa/dịch vụ có thể tăng gấp đôi chỉ trong vòng vài ngày, thậm chí là vỏn vẹn 15 giờ đồng hồ (lạm phát ở Hungary năm 1946).

Hậu quả của những “cơn bão” lạm phát này là khiến cho chính phủ các nước kể trên phải đồng loại thay đổi đơn vị tiền tệ do sự mất giá “không phanh” của đồng tiền đang sử dụng. Đó thực sự là thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng của nhiều quốc gia châu Âu. Và dù đã được giải quyết bằng nhiều biện pháp triệt để, song lạm phát vẫn giống như một “cơn ác mộng” đối với nền kinh tế nhiều nước, điển hình là Đức hay Hungary nhiều năm về trước.

3. Các nguyên nhân gây lạm phát

Lạm phát là kẻ thù số một của mọi nền kinh tế. Bất kỳ quốc gia nào cũng đều không mong muốn tình trạng này xảy ra, hậu quả của lạm phát để lại rất nhiều rủi ro, khó khăn, có nhiều nguyên nhân lạm phát, cụ thể như dưới đây.

3.1 Lạm phát do nhu cầu của thị trường gia tăng

Nhu cầu sử dụng một mặt hàng nào đó gia tăng có thể dẫn đến sự tăng giá của mặt hàng đó. Điều này cũng có thể khiến giá cả các những mặt hàng tương tự trở lên leo thang và khiến hàng hóa trên thị trường đồng loạt tăng giá. Sự lạm phát do sự tăng lên về nhu cầu của người tiêu dùng và thị trường được gọi là “Lạm phát do cầu kéo”.

lam phat la gi cac nguyen nhan gay ra lam phat 2

Cầu tăng cao cũng là nguyên nhân gây lạm phát

3.2 Lạm phát do chi phí đẩy của doanh nghiệp

Các yếu tố như: Tiền lương, chi phí mua nguyên liệu đầu vào, chi phí bảo dưỡng máy móc, tiền bảo hiểm của nhân công,… được gọi là các chi phí đẩy của doanh nghiệp. Khi giá cả của những yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí để sản xuất các sản phẩm của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên.

Do đó, để bảo toàn lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tiến hành tăng giá sản phẩm bán ra. Điều này khiến cho mức giá của toàn bộ nền kinh tế cũng tăng theo. Quá trình này được gọi là “Lạm phát do chi phí đẩy”.

3.3 Lạm phát do cơ cấu

Ngoài những nguyên nhân trên, cơ cấu sẵn cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát của nền kinh tế. Ở các lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tiến hành tăng tiền lương “danh nghĩa” cho người lao động.

lam phat la gi cac nguyen nhan gay ra lam phat 3

Lạm phát do cơ cấu mang lại hiệu quả xấu cho nền kinh tế

Nhưng ở những lĩnh vực kinh doanh không hiệu quả, nhiều doanh nghiệp cũng phải “đuổi” theo xu thế đó và tăng tiền lương “danh nghĩa” cho người lao động. Tuy nhiên, do hoạt động sản xuất, kinh doanh không mang lại nhiều lợi nhuận nên các doanh nghiệp đã tiến hành tăng giá bán sản phẩm. Và điều này gây nên tình trạng lạm phát.

3.4 Lạm phát do nhu cầu thị trường thay đổi

Tình trạng này xảy ra khi nhu cầu tiêu thụ một mặt hàng nào đó giảm sút, trong khi đó, nhu cầu về mặt hàng khác lại tăng lên. Khi đó, sẽ có 2 trường hợp xảy ra:

– Trường hợp thị trường có đơn vị cung cấp độc quyền và gần như giá bán có sự niêm yết thì mặt hàng bị giảm cầu vẫn có giá bán không đổi.

– Trong khi đó, mặt hàng có nhu cầu tiêu thụ tăng thì giá bán sẽ tăng lên.

Cả hai trường hợp này đều dẫn đến tình trạng mức giá chung của thị trường tăng lên và gây phát sinh lạm phát.

lam phat la gi cac nguyen nhan gay ra lam phat 4

Nhu cầu thị trường cũng là yếu tố gây phát sinh lạm phát

3.5 Một số nguyên nhân gây lạm phát khác

Nếu vẫn còn băn khoăn: “Nguyên nhân gây lạm phát là gì?” thì bạn có thể theo dõi thêm những gạch đầu dòng dưới đây:

Lạm phát do xuất khẩu : Xuất khẩu tăng gây ra tình trạng tổng cầu lớn hơn tổng cung. Bởi đa phần hàng hóa đã được thu gom để phục vụ cho xuất khẩu, điều đó làm cho hàng hóa trong nước trở nên khan hiếm gây ra tình trạng tổng cầu trong nước lớn hơn tổng cung. Khi cung – cầu mất cân bằng sẽ gây ra tình trạng lạm phát.

Lạm phát xảy ra do nhập khẩu : Khi giá của một hàng hóa nhập khẩu tăng sẽ khiến giá bán trong nước của sản phẩm đó tăng theo. Và khi giá bán chung của hàng hóa đó bị đội lên bởi giá nhập khẩu sẽ hình thành lạm phát.

Lạm phát tiền tệ : Đây là vấn đề mà không ít nền kinh tế gặp phải. Khi lượng tiền lưu hành trong nước tăng lên sẽ khiến lượng tiền lưu thông tăng và dẫn đến lạm phát.

4. Tình trạng lạm phát ở Việt Nam

Tỷ lệ lạm phát Việt Nam từ năm 2016 đến nay luôn nằm trong mức kiểm soát khi luôn nằm dưới ngưỡng 5%. Mặc dù tỷ lệ lạm phát Việt Nam 2018 có sự chênh lệch đáng kể so với tỷ lệ lạm phát cơ bản, nhưng nó lại phản ánh đúng bức tranh kinh tế khi mà giá các dịch vụ y tế, giáo dục tăng kéo theo sự tăng giá của nhiều mặt hàng như lương thực, thực phẩm,… Theo các chuyên gia kinh tế, tỷ lệ lạm phát 2018 của Việt Nam nằm trong mức kiểm soát, nó cho thấy một điều rõ ràng là mức sống, thu nhập của người dân được cải thiện đáng kể.

Các nhà kinh tế học dự đoán, năm 2019 nền kinh tế Việt Nam sẽ đương đầu với không ít khó khăn, thách thức. Bởi 2019 sẽ là năm mà nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép từ nhiều phía như: Sự tăng – giảm giá xăng dầu, cuộc chiến về giá bán của các sản phẩm nội địa. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng nhà nước Việt Nam kỳ vọng sẽ giữ lạm phát kỳ vọng ở mức 4% – Con số đòi hỏi sự nghiêm túc thực hiện của mọi cơ quan, ban ngành liên quan.

https://thuthuat.taimienphi.vn/lam-phat-la-gi-cac-nguyen-nhan-gay-ra-lam-phat-49127n.aspx
Như vậy, lạm phát đơn giản là sự mất giá của đồng tiền, nó gây ra những hệ lụy không nhỏ cho nền kinh tế. Đây là vấn đề mà mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam phải đối mặt trước bối cảnh kinh tế thế giới đang có nhiều biến động như hiện nay. Ngoài ra, các bạn tìm hiểu thêm Chứng khoán là gì tại đây.

Từ khoá liên quan:

Lạm phát là gì? Các nguyên nhân gây ra lạm phát

, lam phat la gi? cac nguyen nhan gay ra lam phat,

“Bơm tiền” và lạm phát: Bài toán khó giải?

CôngThương – Xu hướng “hút” ròng của NHNN trên OMO vốn kéo dài suốt trong ba tuần đầu tháng 1/2013 (giảm dần từ mức 24.517 tỷ đồng trong tuần đầu còn 1.762 tỷ đồng trong tuần thứ hai và xuống 919 tỷ đồng trong tuần thứ ba), sẽ được thay thế bằng trạng thái “bơm” ròng tích cực trong 3 tuần cuối. NHNN có thể sẽ sớm thực hiện hút tiền trở lại thông qua các công cụ khác nhằm vừa điều hòa dòng vốn trên thị trường, vừa bảo đảm thanh khoản của hệ thống.

Để một nền kinh tế vận hành bình thường, không thể không “bơm” tiền ra lưu thông qua những công cụ khác nhau. Và, hậu quả tất yếu là CPI tăng, nguy cơ lạm phát lại rình rập.

Phản ứng tất yếu với lượng tiền lớn được “bơm” ra lưu thông là chỉ số giá (CPI) sẽ leo thang. Diễn biến dễ nhận thấy nhất hiện nay chính là sự leo thang giá cả của một số mặt hàng chủ chốt, đặc biệt là nhóm hàng lương thực- thực phẩm. Số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố cho thấy, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 1 đạt tới 1,25% so với tháng trước và 7,07% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là tháng có mức tăng CPI cao nhất tính từ tháng 10/2012 đến nay. Nếu lấy mục tiêu CPI cả năm 2013 là 6,5%, mức tăng 1,25% của CPI trong tháng 1 đã chiếm tới 19,2%.

CPI là “phong vũ biểu” của lạm phát. Và, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Ngoài những nhân tố thuộc lĩnh vực tiền tệ còn rất nhiều nhân tố phi tiền tệ như cấu trúc của nền kinh tế; hiệu quả của đầu tư công; hiệu quả sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước; sự tiết kiệm trong chi tiêu từ ngân sách… Vì vậy, sẽ không thể hoàn toàn đổ lỗi cho chính sách tiền tệ khi lạm phát xảy ra. Song, khi những yếu kém, những bất hợp lý trong cấu trúc của nền kinh tế, trong hiệu quả đầu tư công… chưa được khắc phục thì lạm phát và lượng tiền được “bơm” ra lưu thông lại như bóng với hình.

Để một nền kinh tế vận hành bình thường, không thể không “bơm” tiền ra lưu thông qua những công cụ khác nhau. Và, hậu quả tất yếu là CPI tăng, nguy cơ lạm phát lại rình rập. Đó sẽ là cái “vòng luẩn quẩn” trong một nền kinh tế có quá nhiều yếu kém và là một bài toán có thể cho vô nghiệm.

Không thể chỉ sử dụng công cụ tiền tệ để chữa căn bệnh lạm phát. Do đó, tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao hiệu quả đầu tư nói chung, đầu tư công nói riêng, ngăn chặn có hiệu quả tệ tham nhũng, lãng phí, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế… là những biện pháp cơ bản và quan trọng cần thực hiện càng nhanh càng tốt.

Chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát


Theo ông, nên hiểu thế nào là chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát?


Chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát (inflation targeting monetary policy) về bản chất phải dựa vào một số tiền đề và quan trọng nhất là NHNN phải đưa ra một tỷ lệ lạm phát cụ thể nào đó. Ví dụ ở Mỹ, NHTW (Fed) đưa ra tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2%, nghĩa là cơ quan này sẽ điều chỉnh lãi suất và các công cụ chính sách tiền tệ khác để làm sao lạm phát xoay quanh mức 2% đó. Nếu giá cả tăng cao hơn mục tiêu lạm phát thì Fed sẽ tăng lãi suất để giảm cho vay và do đó giảm lượng tiền đi vào lưu thông, đồng thời giảm tỷ lệ lạm phát thực tế, còn ngược lại, nếu tỷ lệ lạm phát thực tế thấp hơn lạm phát mục tiêu thì Fed sẽ giảm lãi suất xuống để cho vay nhiều hơn, đẩy lượng tiền vào lưu thông và do đó tăng lạm phát thực tế.


Điều này cũng giúp cho DN khi thấy được tỷ lệ lạm phát thực tế không khớp với mục tiêu lạm phát sẽ dự đoán được NHTW sẽ làm gì. Bên cạnh đó, cần có những tiền đề là hệ thống ngân hàng minh bạch thông suốt, lãi suất vận hành tự do, cạnh tranh lành mạnh.


Mô hình chính sách này có lợi và bất lợi gì?


Điểm lợi là lạm phát sẽ được kiểm soát chặt chẽ vì lãi suất và chính sách tiền tệ chủ yếu xoay quanh việc kiểm soát lạm phát. Điểm bất lợi là có thể sẽ làm cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế trở thành thứ yếu vì tất cả mục tiêu ưu tiên là kiểm soát lạm phát và ổn định đồng nội tệ. Trong khi ở Việt Nam, bên cạnh yêu cầu kiểm soát lạm phát thì tăng trưởng cũng là mục tiêu rất quan trọng. Trong một nền kinh tế non trẻ, tăng trưởng thấp sẽ phát sinh rất nhiều vấn đề về kinh tế, dân sinh và xã hội. Vì thế, không thể để kinh tế tăng trưởng dưới mức 5%. Tuy nhiên, khi có điều kiện để thực hiện chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát thì nên thi hành để giữ bình ổn giá trị đồng Việt Nam, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong ổn định.


 


Việt Nam có hội đủ điều kiện để theo đuổi chính sách này hay không, theo ông?


Từ trước đến giờ, Việt Nam chưa bao giờ đưa ra mục tiêu cụ thể theo đuổi chính sách này vì hình như chưa hội đủ điều kiện để thực hiện. NHTW chưa bao giờ đưa ra một mục tiêu lạm phát mà chỉ có Quốc hội làm việc này, nhưng ngay cả khi Quốc hội đề ra một mục tiêu lạm phát thì NHTW cũng chưa bao giờ tuyên bố đó là mục tiêu theo đuổi của chính sách tiền tệ.


Hiện tại, lạm phát và lãi suất ở Việt Nam hầu như không có mối liên kết chặt chẽ. Trong khi lãi suất đã được điều chỉnh rất sâu nhưng các doanh nghiệp không có khả năng vay và do đó hệ thống ngân hàng không đẩy được một lượng tiền lớn vào lưu thông qua tín dụng. Vậy là lãi suất đã không ảnh hưởng nhiều đến lạm phát. Nói cách khác, công cụ lãi suất đã bị vô hiệu hóa bởi hoạt động sản xuất kinh doanh suy giảm tới mức nhiều doanh nghiệp không muốn vay hay không còn khả năng vay vốn từ các ngân hàng.


Trong thời gian qua, lãi suất và lạm phát cùng giảm rất sâu. Đây là một điều rất tốt mà NHNN đã thực hiện được. Tuy nhiên, hình như lãi suất đi sau lạm phát chứ không phải đi trước lạm phát. Nghĩa là lạm phát bị đẩy xuống không phải do lãi suất giảm mà do sức cầu rất yếu của nền kinh tế. Sau đó, trên cơ sở lạm phát giảm, lãi suất đã được kéo xuống. Đây là một nghịch lý.


Từ thực tế trên, có thể nói, môi trường tài chính hiện nay của Việt Nam không thích hợp cho một chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát.


Bao giờ thì Việt Nam có thể sử dụng chính sách này?


Việt Nam nên theo đuổi chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát tại một thời điểm thích hợp khi mà các điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi hơn, cùng với hệ thống ngân hàng và tài chính phải được tái cơ cấu để trở nên thông suốt, minh bạch, và những yếu tố làm méo mó thị trường như các biện pháp hành chính, các kiểu cạnh tranh không lành mạnh, đến việc vi phạm các quy định của pháp luật và của NHTW phải được giảm thiểu tối đa. Tại thời điểm này, không những chúng ta quan tâm đến kiềm chế lạm phát mà còn phải nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu chúng ta quan tâm quá nhiều đến lạm phát mà kinh tế càng ngày càng đi vào khủng hoảng thì có khác nào một tình cảnh mà người Mỹ hay ví von: “chúc mừng anh, cuộc giải phẫu thành công tốt đẹp nhưng bệnh nhân đã chết”.


Tái cơ cấu cả nền kinh tế, trong đó có hệ thống ngân hàng khỏe mạnh để cả nền kinh tế được vận hành một cách quy củ, từ đó, lãi suất mới trở thành một công cụ hiệu lực của chính sách tiền tệ thì lúc đó mới có thể thực hiện “chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát”.