Kim Dung – Nhà văn kiếm hiệp Kim Dung
24/06/2019
Huyền thoại võ thuật Lý Tiểu Long (Bruce Lee) và nhà văn Kim Dung đều được xem là hai biểu tượng trường tồn của lịch sử phim truyện Trung Hoa. Mỗi người phát triển một tài năng riêng, người diễn xuất, người viết văn, nhưng họ đều mang lại cho công chúng những tác phẩm kinh điển.
Kim Dung – Wikipedia tiếng Việt
Louis Cha (tên khai sinh) | |
---|---|
Tên tiếng Trung | |
Phồn thể | 查良鏞 |
Giản thể | 查良镛 |
Kim Dung (bút danh) | |
Tiếng Trung | 金庸 |
Tên tiếng Việt | |
Tiếng Việt | Tra Lương Dung / Kim Dung |
Tên tiếng Thái Lan | |
Tiếng Thái Lan | จาเลี้ยงย้ง / กิมย้ง |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | 사량용 / 김용 |
Bút danh lấy từ chữ cuối trong tên thật của nhà văn |
Kim Dung (10 tháng 3 năm 1924 – 30 tháng 10 năm 2018) là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất của văn học Trung Quốc hiện đại. Ông còn là người đồng sáng lập của nhật báo Hồng Kông Minh Báo, ra đời năm 1959 và là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này.
Từ năm 1955 đến 1972 ông đã viết tổng cộng 14 cuốn tiểu thuyết và 1 truyện ngắn. Sự nổi tiếng của những bộ truyện đó khiến ông được coi là người viết tiểu thuyết võ hiệp thành công nhất. 300 triệu bản in (chưa tính một lượng rất lớn những bản lậu) đã đến tay độc giả của Trung Hoa đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, châu Á và đã được dịch ra các thứ tiếng Việt, Hàn, Nhật, Thái, Anh, Pháp, Indonesia. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyền hình, trò chơi điện tử.
Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 10930 Jinyong (1998 CR2), là tiểu hành tinh được tìm ra trùng với ngày sinh âm lịch của ông (6 tháng 2).[2] Tháng 2 năm 2006, ông được độc giả bầu là nhà văn được yêu thích nhất Trung Quốc.
Ông là người rất yêu thiên nhiên yêu động vật, đặc biệt ông có nuôi một con chó Trùng Khánh rất quý.
Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung (phồn thể: 查良鏞, giản thể: 查良镛, bính âm: Cha Leung Yung), sinh vào ngày 10 tháng 3 năm 1924 tại trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, địa cấp thị Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, trong một gia tộc khoa bảng danh giá . Ông nội là Tra Văn Thanh làm tri huyện Đan Dương ở tỉnh Giang Tô. Tra Văn Thanh về sau từ chức, đến đời con là Tra Xu Khanh bắt đầu sa sút; Tra Xu Khanh theo nghề buôn, sau sinh 9 đứa con, Kim Dung là con thứ hai.[3] Tra Xu Khanh (查樞卿) bị chính quyền cộng sản bắt và hành quyết với tội phản cách mạng trong phong trào Thanh Trừng Phản Cách Mạng vào những năm đầu thập niên 1950. Sau này vào thập niên 1980 Tra Xu Khanh được tuyên bố vô tội.
Thuở nhỏ Kim Dung thông minh, lanh lợi, nghịch nhưng không đến nỗi quậy phá. Ông yêu thiên nhiên, thích nghe kể chuyện thần thoại, truyền thuyết, nhất là về những ngọn triều trên sông Tiền Đường. Đặc biệt ông rất mê đọc sách. Dòng họ Kim Dung có một nhà để sách gọi là “Tra thị tàng thư” nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây, chứa rất nhiều sách cổ, những cuốn sách này làm bạn với ông từ rất bé.[cần dẫn nguồn]
Sáu tuổi, ông vào học tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất chăm học, lại thêm mê đọc sách nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy dạy văn cho ông lúc bé tên Trần Vị Đông, là người rất thương yêu và tin tưởng Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim Dung, nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật báo, tờ báo nổi tiếng nhất Trung Quốc bấy giờ.[cần dẫn nguồn]
Năm lên tám tuổi, ông lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc đến bộ truyện Hoàng Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, cảm thấy rất say mê, từ đó thường sưu tầm tiểu thuyết thể loại này.[cần dẫn nguồn]
Năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, Kim Dung được gửi đến học trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Tuy xa nhà nhưng cuộc sống của ông cũng không khác mấy, ngoài đi học vẫn chúi đầu đọc sách, và vẫn đứng đầu lớp. Một hôm nhân dịp về thăm nhà, ông khoe gia đình cuốn sách Dành cho người thi vào sơ trung, một cuốn cẩm nang luyện thi, có thể coi là cuốn sách đầu tiên của ông, viết năm 15 tuổi và được nhà sách chính quy xuất bản. Đến khi lên bậc Cao trung, Kim Dung lại soạn Hướng dẫn thi vào cao trung. Hai cuốn sách in ra bán rất chạy, đem lại cho ông khoảng nhuận bút hậu hĩnh.[cần dẫn nguồn]
Năm 16 tuổi, ông viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice có ý châm biếm ngài chủ nhiệm ban huấn đạo, người này tức giận, liền ép hiệu trưởng phải đuổi học ông. Cuộc du hành của Alice tuy đem lại tai hại, nhưng đã cho thấy tài tưởng tượng, cũng như tinh thần phản kháng của Kim Dung, mà sau này thể hiện rất rõ trên các tác phẩm. Ông lại chuyển đến học trường Cù Châu. Tại trường này có những quy định rất bất công với học trò, học sinh không được quyền phê bình thầy giáo, nhưng thầy giáo có quyền lăng nhục học sinh. Năm thứ hai tại trường, ông viết bài Một sự ngông cuồng trẻ con đăng lên Đông Nam nhật báo. Bài báo làm chấn động dư luận trong trường, được giới học sinh tranh nhau đọc. Ban giám hiệu trường Cù Châu đành phải bãi bỏ những quy định nọ. Không những vậy, một ký giả của Đông Nam nhật báo là Trần Hướng Bình do hâm mộ tác giả bài báo, đã lặn lội tìm đến trường học để thỉnh giáo, mà không biết tác giả chỉ là một học sinh.[cần dẫn nguồn]
Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di dời, ban giám hiệu quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để bớt đi gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học Luật quốc tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Thi đậu, nhưng để đến được trường phải trải qua nhiều ngày đi bộ.[cần dẫn nguồn]
Tại học viện chính trị Trung ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối năm nhất ông được tặng phần thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ này, ông ngoài tham gia viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt tay vào làm cuốn Anh – Hán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng Anh, hai công trình này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại trường bắt đầu nổi lên các cuộc bạo loạn chính trị. Có lần viết thư tố cáo một vụ bê bối trong trường, Kim Dung lần thứ hai trong đời bị đuổi học, năm 19 tuổi.[cần dẫn nguồn]
Sau ông xin làm việc tại Thư viện trung ương. Ở chung với sách, tri thức nâng cao lên rất nhiều. Ngoài đọc sách sử học, khoa học và những tiểu thuyết võ hiệp đương thời, ông còn đọc những cuốn như Ivanhoe của Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas (cha), những truyện này đã ảnh hưởng đến văn phong của ông. Tại đây ông bắt đầu nảy sinh ý định sáng tác truyện võ hiệp. Ông cũng sáng lập ra một tờ báo lấy tên Thái Bình dương tạp chí, nhưng chỉ ra được một số đầu, số thứ 2 nhà xuất bản không chịu in, tờ báo đầu tiên của ông xem như thất bại.[cần dẫn nguồn]
Năm 1944, ông đến làm việc cho một nông trường ở Tương Tây. Nơi này rất tịch mịch hẻo lánh, đến năm 1946, không chịu nổi ông xin thôi việc, người chủ nông trường không cản được, tiễn ông bằng một bữa thịnh soạn. Mùa hạ năm đó, ông về lại quê cũ ở Hải Ninh, cha mẹ nghe tin ông bị đuổi học, rất buồn. Điều ấy khiến ông quyết tâm ra đi lập nghiệp.[cần dẫn nguồn]
Năm 1946 từ biệt gia đình, ông về Hàng Châu làm phóng viên cho tờ Đông Nam nhật báo theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày xưa đã tìm đến trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú về viết báo. Năm sau, theo lời mời của tạp chí Thời dữ triều, ông thôi việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết hay dịch thuật từ máy Radio. Chẳng bao lâu ông lại rời toà soạn Thời dữ triều, xin vào làm phiên dịch của tờ Đại công báo. Lúc này anh trai của Kim Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học viện Pháp lý thuộc đại học Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp về luật quốc tế.[cần dẫn nguồn]
Năm 1948, tờ Đại công báo ra phụ bản tại Hồng Kông, ông được cử sang làm việc ở đó, dịch tin quốc tế. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến nhà họ Đỗ để ngỏ lời cầu hôn cô con gái 18 tuổi, được chấp nhận. Hôn lễ tổ chức trang trọng tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên Đỗ Trị Phân của ông rất xinh đẹp.[cần dẫn nguồn]
Năm 1950, trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, gia đình ông bị quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, từ đó ông mất liên lạc với gia đình. Trong lúc này, vợ ông không chịu nổi cuộc sống ở Hồng Kông, trở về gia đình bên mẹ, không chịu về nhà chồng nữa. Năm 1951 họ quyết định ly hôn.[cần dẫn nguồn]
Năm 1952, ông sang làm việc cho tờ Tân văn báo, phụ trách mục Chuyện trà buổi chiều, chuyên mục này giúp ông phát huy khả năng viết văn của mình hơn, ông rất thích, một phần vì khán giả cũng rất thích. Ông còn viết phê bình điện ảnh. Từ đó dần đi sâu vào lĩnh vực này. Từ 1953, rời Tân Văn báo, bắt tay vào viết một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân, Tam luyến… dưới bút danh Lâm Hoan. Những kịch bản này dựng lên được các diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ như Hạ Mộng, Thạch Tuệ, Trần Tứ Tứ… diễn xuất. Được nhiều thành công đáng kể.[cần dẫn nguồn]
Từ khi mới vào làm cho Tân Văn Báo, ông quen thân với La Phù và Lương Vũ Sinh. Đến năm 1955, được hai người ủng hộ và giúp đỡ, ông viết truyện võ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừu lục, đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân báo, bút danh Kim Dung cũng xuất hiện từ đây. Hai chữ “Kim Dung” 金庸 là chiết tự từ chữ “Dung” 鏞, tên thật của ông, nghĩa là “cái chuông lớn”. Thư kiếm ân cừu lục ra đời, tên Kim Dung được chú ý đến, dần dần, ông cùng Lương Vũ Sinh được xem như hai người khai tông ra Tân phái của tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ Bích huyết kiếm được hoan nghênh nhiệt liệt, từ đó chuyên tâm vào viết tiểu thuyết võ hiệp và làm báo, không hoạt động điện ảnh nữa.[cần dẫn nguồn]
Năm 1959, cùng với bạn học phổ thông Trầm Bảo Tân, ông lập ra Minh Báo. Ông vừa viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xă luận. Qua những bài xă luận của ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất. Không như một số tờ báo do ông sáng lập khác, Minh Báo theo ông đến khi kết thúc sự nghiệp.[cần dẫn nguồn]
Năm 1972 sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ông đă chính thức nghỉ hưu và dành những năm sau đó biên tập, chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình. Lần hoàn chỉnh đầu tiên là vào năm 1979. Lúc đó, các tiểu thuyết võ hiệp của ông đă được nhiều độc giả biết điến. Các tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm sau, ông tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc.[4]
Vào tháng 10 năm 1976, sau cái chết đột ngột của con trai trưởng của mình, Kim Dung đã quyết định tìm hiểu nhiều vào các triết lý của tôn giáo. Kết quả là ông tự mình quy y Phật giáo hai năm sau đó.[5]
Năm 1993, ông thôi làm chức chủ bút, bán tất cả các cổ phần trong Minh Báo.[cần dẫn nguồn]
Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên.[6]
Ngày 30 tháng 10 năm 2018, nhà văn Kim Dung qua đời ở tuổi 94 tại Bệnh viện Hong Kong sau một thời gian dài chiến đấu với bệnh tật.[7]
Kim Dung trải qua 3 đời vợ. Người vợ đầu là Đỗ Trị Phân (杜治芬), một thiếu nữ khuê các; người vợ thứ hai là Chu Mân (朱玫), một nữ phóng viên năng động; người vợ thứ ba là Lâm Lạc Di (林樂怡), một nữ phục vụ.
Kim Dung có bốn người con (hai trai hai gái) đều là do người vợ thứ hai Chu Mân sinh ra và không ai theo nối nghiệp văn chương của cha.[8]
- Con đầu (trai) của Kim Dung là Tra Truyền Hiệp. Truyền Hiệp ra đời vào lúc Kim Dung và Chu Mai đang vất vả mưu sinh, chuẩn bị thành lập tòa soạn Minh báo. Tháng 10 năm 1976, Tra Truyền Hiệp đang học năm nhất Đại học Columbia đã bất ngờ treo cổ tự tử sau khi cãi nhau qua điện thoại với người bạn gái ở San Francisco, lúc ấy anh chưa đầy 20 tuổi. Nguyên nhân cái chết của Tra Truyền Hiệp có thuyết nói là do anh buồn chuyện cha mẹ kiên quyết ly hôn, khuyên can vô hiệu, lại gặp chuyện với bạn gái, nhất thời kích động nên đã quyên sinh.
- Con thứ hai (trai) của Kim Dung là Tra Truyền Thích có vóc dáng giống Kim Dung nhất. Tra Truyền Thích rất mê nấu ăn, am hiểu và thạo chế biến các món ăn của Pháp, Ấn Độ, Tứ Xuyên, Quảng Đông. Truyền Thích viết nhiều bài về ẩm thực trên các báo, tạp chí, lấy bút danh là “Bát Đại đệ tử”. “Bát Đại” là chỉ 8 thứ cốt yếu trong nấu ăn truyền thống. Năm 2001, Tra Truyền Thích mở nhà hàng Thực Gia Thái ở Hồng Kông. Năm 2004, Tra Truyền Thích đóng cửa nhà hàng, đến Thẩm Quyến làm chỉ đạo ẩm thực cho một nhà hàng cao cấp.
- Con thứ ba (gái) của Kim Dung là Tra Truyền Thi. Lúc Truyền Thi được 5 tuổi thì Cách mạng Văn hóa nổ ra. Kim Dung bị liệt vào vị trí thứ hai trong danh sách 5 người phải tiêu diệt. Vị trí số một là phát thanh viên Lâm Bân, khi đang trên đường đi làm thì bị nhóm người chặn xe đổ xăng thiêu sống. Trước tình hình đó, Kim Dung phải đưa vợ con đi lánh nạn ở Singapore. Tại đây, Truyền Thi bị sốt cao, đưa vào một bệnh viện tiêm thuốc nhưng không may lại quá liều khiến hai tai cô bé bị điếc. Kim Dung thường gọi yêu đùa con là “Tiểu Lung Nữ” (“lung” là điếc). Tháng 3 năm 1982, Tra Truyền Thi được cha gửi sang Canada, học tại trường Đại học York, tốt nghiệp với thành tích xuất sắc, sau đó về Hồng Kông làm ở bộ phận quảng cáo của tòa soạn Minh Báo. Sau đó cô làm phóng viên, phó tổng biên tập tờ Minh báo buổi tối. Năm 1988, cô kết hôn với tổng biên tập là Triệu Quốc An.
- Con út (gái) của Kim Dung là Tra Truyền Nột, từ nhỏ đã thể hiện năng khiếu hội họa. Tranh của cô được giới chuyên môn đánh giá cao.[9]
Dịch giả đưa Kim Dung lên cơn sốt tại Việt Nam được ghi nhận là Tiền Phong Từ Khánh Phụng với bản Cô gái Đồ Long (dịch Ỷ thiên Đồ long ký), đăng trên báo Đồng Nai năm 1961. Thực ra trước đó, đã có một số bản dịch như Bích huyết kiếm của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), Anh hùng xạ điêu của Đồ Mập (báo Dân Việt), Thần điêu đại hiệp (Thần điêu hiệp lữ) của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới). Tuy nhiên, truyện kiếm hiệp vẫn được xem là thứ giải trí rẻ tiền. Bản dịch Cô gái Đồ Long mới tạo nên cơn sốt truyện Kim Dung trong các tầng lớp độc giả từ bình dân đến trí thức. Một số nhà văn nhà báo lấy bút danh theo tên nhân vật trong truyện Kim Dung như Hư Trúc, Kiều Phong… Nhiều nhà văn nổi tiếng tham gia bình luận Kim Dung như Bùi Giáng, Bửu Ý, công phu nhất là Đỗ Long Vân với loạt bài Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung.
Dịch giả truyện Kim Dung tài hoa nhất là Hàn Giang Nhạn với các bản dịch Tiếu ngạo giang hồ, Lộc Đỉnh ký… câu văn thanh thoát tự nhiên, sinh động.
Sau 1975, giống như tại Trung Quốc và Đài Loan cùng thời, các tác phẩm của Kim Dung bị nhà nước Việt Nam cấm lưu hành. Tuy nhiên, các bản sách cũ vẫn được lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc. Đầu thập niên 1990, với chủ trương Đổi Mới, chính quyền Việt Nam giảm bớt sự cấm đoán gắt gao với văn hóa văn nghệ. Một số phim và sách võ hiệp cũ được phát hành lại. Để dễ xin phép xuất bản, thoạt tiên sách không ghi đúng tên tác giả mà lấy các bút danh khác như Nhất Giang, về sau mới ghi đúng tên Kim Dung, Cổ Long. Nhà xuất bản Quảng Ngãi đã tích cực phát hành lại sách võ hiệp cũ. Thêm vào đó, sự phát triển của Internet giúp các bản dịch cũ lưu truyền rộng rãi, ban đầu dưới dạng scan từng trang sách, sau đó là dạng văn bản do những người hâm mộ gõ lại. Sau 1975, nhà văn Vũ Đức Sao Biển là người đầu tiên viết khảo luận về Kim Dung, các bài của ông đăng trên tập san Kiến thức ngày nay, sau in thành bộ Kim Dung giữa đời tôi (4 quyển).
Công ty Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên mua bản quyền dịch tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Từ năm 1999, Phương Nam đã mua được bản quyền dịch tác phẩm của Kim Dung, thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Từ năm 2001, toàn bộ tác phẩm võ hiệp của Kim Dung lần lượt được dịch lại và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất. Các dịch giả gồm có Cao Tự Thanh, Vũ Đức Sao Biển, Lê Khánh Trường, Đông Hải, Hoàng Ngọc (Huỳnh Ngọc Chiến).
Trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài, dịch giả Nguyễn Duy Chính được xem là người có các bản dịch với chất lượng dịch tốt, điển hình như các bản dịch Thiên long bát bộ và Ỷ thiên Đồ long ký (lưu truyền trên Internet). Nguyễn Duy Chính cũng viết một số khảo luận về các yếu tố văn hóa Trung Hoa trong tác phẩm của Kim Dung.
Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung[sửa | sửa mã nguồn]
Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung là tên một cuốn tiểu luận dày hơn 300 trang của Đỗ Long Vân, xuất bản lần đầu tiên năm 1967 in tại nhà in Trình Bày, Sài Gòn. Cuốn sách nổi tiếng ngay sau khi được xuất bản vào năm 1967. Cuốn sách bị cấm tại Việt Nam từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 cho đến năm 2000, khi nó được in lại trong một tuyển tập. Trước đó tập tiểu luận này cũng được đăng rải rác trên mạng với lời bình của Nguyễn Quốc Trụ.[10]
Nguyên Sa đánh giá cao tác phẩm này, còn Bùi Giáng thì tỏ ra hết sức khâm phục, ông thường nhắc đến cuốn sách trong các bài Luận kiếm hiệp của mình như một đỉnh cao khó vươn tới.
Cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung không xét tới bộ truyện ưu tú Lộc đỉnh ký, vì khi ấy bộ truyện này chưa ra đời. Tập sách chỉ xoay quanh Thiên long bát bộ, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Ỷ thiên Đồ long ký, với những phân tích về võ công, về nội lực, về tính cách nhân vật và những triết lý ẩn chứa trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Ở đoạn mở đầu, Đỗ Long Vân tỏ ý muốn tìm ra câu giải đáp cho cái gọi là “hiện tượng Kim Dung” ở khắp miền Nam Việt Nam thời ấy.
Bùi Giáng trong “Thi Ca tư tưởng”, trong lúc nói về Đỗ Long Vân:
- Cuốn sách của ông bàn về Kim Dung nằm trong vùng tư tưởng thâm viễn như cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim. Chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Đông phương, Tây phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật rộng rãi không cùng. [cần dẫn nguồn]
- Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác của ông ở vài chi tiết. Nhưng không cần. Điều cốt yếu, ông đã nói xong, và vô số dư âm sẽ tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Đông phương hay Tây phương. [cần dẫn nguồn]
- Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn “Trương Vô Kỵ giữa chúng ta” để đọc lại nhiều lần… [cần dẫn nguồn]
Ngoài các tiểu thuyết võ hiệp, ông còn viết các truyện lịch sử Trung Quốc. Ông đã được trao tặng nhiều huân chương danh dự.
Kim Dung đã được trao tặng huân chương OBE của Vương Quốc Anh năm 1981, và Bắc đẩu bội tinh năm 1982, Commandeur de l’Ordre des Arts et des Lettres năm 2004 của chính phủ Pháp.[11]
Ông cũng là giáo sư danh dự của nhiều trường đại học như Bắc Kinh, Chiết Giang, Nam Khai, Hồng Kông, British Columbia cũng như là tiến sĩ danh dự của đại học Cambridge.[12]
Tháng 3 năm 2017, Bảo tàng Di sản Hong Kong đã mở cuộc triển làm các tranh ảnh có liên quan đến các tác phẩm của Kim Dung.[13]
-
Hình ảnh anh hùng xạ điêu tại bảo tàng 2017
-
Khung cảnh phòng triển lãm 2017
Kim Dung viết tổng cộng 15 truyện trong đó 1 truyện ngắn và 14 tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo.
Tên truyện | Tên nguyên bản |
Tên khác | Năm sáng tác |
Số lượng từ |
Ghi chú | |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | Thư kiếm ân cừu lục | 書劍恩仇錄 | 1955 | 513,000 | ||
2 | Bích huyết kiếm | 碧血劍 | 1956 | 488,000 | ||
3 | Xạ điêu anh hùng truyện | 射雕英雄傳 | Anh hùng xạ điêu | 1957 | 918,000 | Xạ điêu tam bộ khúc I |
4 | Thần điêu hiệp lữ | 神雕俠侶 | Thần điêu đại hiệp | 1959 | 979,000 | Xạ điêu tam bộ khúc II |
5 | Tuyết sơn phi hồ | 雪山飛狐 | 1959 | 130,000 | ||
6 | Phi hồ ngoại truyện | 飛狐外傳 | Lãnh nguyệt bảo đao | 1960 | 439,000 | Tiền Tuyết sơn phi hồ |
7 | Bạch mã khiếu tây phong | 白馬嘯西風 | 1961 | 67,000 | ||
8 | Uyên Ương đao | 鴛鴦刀 | 1961 | 34,000 | ||
9 | Ỷ thiên Đồ long ký | 倚天屠龍記 | Cô gái Đồ Long | 1961 | 956,000 | Xạ điêu tam bộ khúc III |
10 | Liên thành quyết | 連城訣 | 1963 | 229,000 | ||
11 | Thiên long bát bộ | 天龍八部 | Lục mạch thần kiếm | 1963 | 1,211,000 | Tiền Xạ điêu tam bộ khúc |
12 | Hiệp khách hành | 俠客行 | 1965 | 364,000 | ||
13 | Tiếu ngạo giang hồ | 笑傲江湖 | 1967 | 979,000 | ||
14 | Lộc Đỉnh ký | 鹿鼎記 | Lộc Đỉnh Công | 1969-1972 | 1,230,000 | |
15 | Việt nữ kiếm | 越女劍 | 1970 TN | 16,000 |
Một số tác phẩm của Kim Dung có những nhân vật và chi tiết bắc cầu với nhau, tuy nhiên đều có thể đọc độc lập.
Chùm truyện có thể nói là nổi tiếng nhất, và cũng có nhiều chi tiết liên kết chặt nhất, là Xạ điêu tam bộ khúc (射鵰三部曲), gồm ba tác phẩm Xạ điêu anh hùng truyện (cuối đời Tống), Thần điêu hiệp lữ (thời Mông Cổ đánh Tống), Ỷ thiên Đồ long ký (thời nhà Minh nổi lên đánh Mông Cổ).
Thiên Long bát bộ (thời Tống) lấy bối cảnh trước Xạ điêu anh hùng truyện, nhưng nội dung câu chuyện vốn là độc lập. Sau này, Kim Dung sửa chữa lại vài chi tiết trong Xạ điêu anh hùng truyện để bắc cầu với Thiên Long bát bộ.
Vài nhân vật của Bích huyết kiếm (thời Minh mạt, Mãn Châu vào đánh) xuất hiện trong Lộc Đỉnh ký (đời Khang Hy).
Vài nhân vật trong Thư kiếm ân cừu lục xuất hiện trong Phi hồ ngoại truyện, tác phẩm này lại kể lai lịch, hành trạng của Hồ Phỉ và một số nhân vật khác của Tuyết sơn phi hồ (các truyện này lấy bối cảnh đời Càn Long).
Các truyện khác của Kim Dung không liên quan với nhau và cũng không có bối cảnh lịch sử cụ thể, trừ Việt nữ kiếm xảy ra thời Xuân Thu.
Hai câu thơ sắp thành tựa đề[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi Kim Dung hoàn thành các tác phẩm của mình, một người bạn của ông là Nghê Khuông phát hiện rằng chữ đầu tiên của tựa đề 14 tiểu thuyết tạo thành hai câu thơ thất ngôn:
-
- Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc
- Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên
Dịch nghĩa:
-
- Tuyết bay đầy trời bắn (nhìn) hươu trắng
- Truyện cười thần hiệp tựa uyên xanh
Đề tài[sửa | sửa mã nguồn]
Chủ nghĩa yêu nước Trung Quốc là đề tài chủ yếu trong các tác phẩm của Kim Dung. Ông nhấn mạnh đến sự độc lập tự chủ của người Hán, và nhiều tác phẩm của ông là bối cảnh khi Trung Quốc bị đe dọa bởi những người phương bắc như Khiết Đan, Nữ Chân, Mông Cổ. Nhưng dần dần chủ nghĩa yêu nước của ông cũng bao gồm các dân tộc thiểu số tạo thành nước Trung Quốc bây giờ. Kim Dung đặc biệt khâm phục các đặc điểm của người Mông Cổ, Mãn Châu. T
Chuyện ít biết về ‘Võ lâm minh chủ’ Kim Dung vừa từ trần
Theo các hãng thông tấn Hoa ngữ, nhà văn Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh năm 1924 tại Chiết Giang,Trung Quốc. Ông sinh trưởng trong gia đình thuộc hàng gia thế, không chỉ giỏi kinh doanh mà còn có học thức hơn người.
Báo Bưu điện Hoa Nam buổi sáng bình luận, Kim Dung được coi là một trong những nhà báo, nhà văn và nhân vật mang tầm ảnh hưởng xã hội lớn nhất tại Trung Quốc và cộng đồng người nói tiếng Hoa nhiều thập niên qua. Thời điểm đánh dấu ông đến với thể loại tiểu thuyết võ hiệp là năm 1955 với tiểu thuyết “Thư Kiếm Ân Cừu Lục” đăng trên tờ New Evening Post.
Kim Dung – “Võ lâm minh chủ” tiểu thuyết võ hiệp vừa qua đời ở tuổi 94
Sau thành công của tiểu thuyết võ hiệp đầu tay năm 1955, Kim Dung tiếp tục tạo tiếng vang trên văn đàn Trung Quốc cũng như được xem là “Võ lâm minh chủ” về sách kiếm hiệp xuất sắc nhất thế kỷ 20 khi cho ra đời nhiều tiểu thuyết ăn khách như “Anh Hùng Xạ Điêu”, “Thần Điêu Đại Hiệp”, “Ỷ Thiên Đồ Long Ký”, “Lộc Đỉnh Ký”, “Tiếu Ngạo Giang Hồ”, “Thiên Long Bát Bộ”…
Đặc biệt, hầu hết các tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đều được các nhà làm phim tại Trung Hoa dàn dựng thành phim và các bộ phim kiếm hiệp Thần Điêu Đại Hiệp, Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Lộc Đỉnh Ký, Tiếu Ngạo Giang Hồ, Thiên Long Bát Bộ… rất hút khán giả, thậm chí có tác phẩm của Kim Dung được sản xuất thành nhiều phiên bản phim kiếm hiệp khác nhau.
Nhiều tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung được dựng thành phim và tạo tiếng vang lớn cho điện ảnh Hoa ngữ
Nổi tiếng và có sự ảnh hưởng lớn tới văn hóa Trung Quốc, tuy nhiên tiểu thuyết gia Kim Dung lại có đời sống gia đình nhiều trắc trở. Kim Dung kết hôn 3 lần. Người vợ đầu là Đỗ Dã Phân, cưới năm 1948 và chỉ hai năm sau đó họ ly hôn. Người vợ thứ hai là tên Chu Mai, hai người có với nhau 2 con trai và 2 con gái. Cuộc hôn nhân của họ bắt đầu xấu đi khoảng năm 1976. Trong khoảng thời gian cuối cùng của cuộc hôn nhân thứ hai, Kim Dung kết thân với một nữ bồi bàn tên Lâm Lạc Di kém ông đến 30 tuổi và họ sau đó đi đến hôn nhân.
Ngoài ra, sách của Kim Dung từng bị cấm khi Cách mạng Văn hóa nổ ra ở Trung Quốc. Tuy nhiên đến năm 1984, các tác phẩm của Kim Dung được xuất bản và lưu hành trở lại giúp hàng triệu người Trung Quốc đại lục tiếp cận với các tác phẩm đỉnh cao của ông.
Phạm Quỳnh
(Theo Sina News, Thời báo Hoa Nam buổi sáng)
Nhân vật kiếm hiệp Kim Dung: Mộc Uyển Thanh, Trương Tam Phong, Kiều Phong, Tạ Tốn, Truật Xích, Chu Chỉ Nhược, Độc Cô Cầu Bại, Thạch Phá Thiên – Livros na Amazon Brasil
Có thể bạn quan tâm
Dịch cân kinh được cho là tuyệt diệu ở chỗ bao quát tất cả kinh lạc của con người, liên hệ với tinh thần ngũ tạng. Khắp mà không tan, đi mà không dứt, khí ở trong sinh, huyết ở ngoài thân.
Luyện được rồi thì tâm động là nội lực tự phát như nước thủy triều dâng, giống như bơi thuyền trên sóng dữ, đợt sóng dâng lên hạ xuống thì thuyền lúc cao lúc thấp, không cần dùng sức.
Đây là môn luyện tập nội công chí tôn vô thượng, bởi lẽ nội công đã luyện thành thì có thể tùy tâm mà phát động.
Địch yếu hay mạnh thì ta đều dễ dàng biến đổi để giành phần hơn như con thuyền trên nước, sóng dâng thì thuyền dâng theo.
Cố nhà văn Kim Dung mô tả rằng: “Với Dịch cân kinh, hàng trăm năm qua không phải bậc kì nhân thì không truyền thụ, mà dẫu kì nhân nhưng không gặp kì duyên thì cũng không truyền thụ.
Dù có là đệ tử xuất chúng của chính Thiếu Lâm mà không có phúc duyên thì cũng không thể truyền”.
Vì vậy, trong tác phẩm Thiên long bát bộ, Cưu Ma Trí do cưỡng cầu luyện dẫn đến tẩu hỏa nhập ma. Tuy nhiên, trong thế giới võ hiệp của mình cố nhà văn Kim Dung đã ưu ái cho Phương Chấn đại sư (hay Phương Chứng đại sư) trong bộ tiểu thuyết Tiếu ngạo giang hồ. Phương Chấn đại sư không chỉ luyện thành Dịch cân kinh mà còn luyện thành Thiên thủ Như Lai chưởng đến độ xuất thần nhập hóa.
Phương Chấn đại sư được cố nhà văn Kim Dung mô tả, là chưởng môn phái Thiếu Lâm, trụ trì Thiếu Lâm tự. Phương Chấn là một hòa thượng nhân từ, nhưng khác với tưởng tượng của Lệnh Hồ Xung cũng như đa số người, Phương Chấn đại sư phải là một cao tăng đắc đạo uy uy lẫm lẫm, nhưng thực tế thì Phương Chứng đại sư chỉ là “một vị lão tăng người thấp lùn nhỏ bé, với vẻ mặt sầu khổ không hiểu đã bao nhiêu tuổi”, ít ai ngờ rằng vị phương trượng Thiếu Lâm tiếng tăm lừng lẫy giang hồ lại trông bình thường như thế.
Nhưng đằng sau cái dáng vẻ bình thường đó lại là một con người đáng kính trọng. Ngay cả một kẻ kiêu ngạo như Nhậm Ngã Hành cũng phải khâm phục Phương Chấn đại sư.
Võ công vị đại sư này đã tới mức xuất thần nhập hóa, với nội công Dịch cân kinh vô địch cộng với Thiên thủ Như Lai chưởng, ông còn trên cơ cả Nhậm Ngã Hành. Nhưng cái để người ta phải khâm phục ông không phải là võ công mà là tài trí cùng với tấm lòng từ bi của một vị cao tăng đắc đạo.
Khi Lệnh Hồ Xung được Doanh Doanh cõng lên chùa Thiếu Lâm trong tình trạng suy kiệt sắp chết, và biết Nhạc Bất Quần đã đuổi chàng ra khỏi sư môn,
Phương Chấn đại sư không hề nghĩ tới cái mối thù cô vừa giết mấy đệ tử của bản tự, ông đã nhận lời cứu Lệnh Hồ Xung, với yêu cầu Doanh Doanh phải ở lại chùa Thiếu Lâm, Phương Chấn đại sư chỉ muốn tạm giam Doanh Doanh để giang hồ được bình yên, vì cô là thánh cô của ma giáo. Phương Chấn đại sư cũng nhận lời truyền thụ Dịch cân kinh cho Lệnh Hồ Xung với điều kiện chàng chịu gia nhập phái Thiếu Lâm, nhưng Lệnh Hồ Xung không đồng ý.
Đến khi quần hùng tụ tập tại tệ tự để đối phó ba người Nhậm Ngã Hành, Nhậm Doanh Doanh và Hướng Vấn Thiên, cán cân lực lượng nghiêng hẳn về bên phe chánh phái, thế nhưng Phương Chứng chỉ đưa ra yêu cầu hai bên tỷ thí võ công 3 hiệp, nếu chánh phái thắng thì tạm giam 3 vị đó 10 năm trên thiếu lâm để tạo phúc cho võ lâm đồng đạo, còn thua thì sẽ để 3 vị đó an toàn xuống núi.
Tuy nhiên, Phương Chấn đại sư đã để thua Nhậm Ngã Hành cũng chỉ vì tấm lòng từ bi của mình muốn cứu Dư Thương Hải mà trúng chưởng của họ Nhậm kia. Cũng chính Phương Chứng là người đã nhìn ra âm mưu thâm sâu của Nhạc Bất Quần cùng Tả Lãnh Thiền mà nói cho Lệnh Hồ Xung biết.
Khi Lệnh Hồ Xung lên chức vụ chưởng môn phái Hằng Sơn, ông đã cùng Xung Hư đạo trưởng phái Võ Đang hết lòng ủng hộ, mong muốn Lệnh Hồ Xung sẽ đoạt chức chưởng môn phái Ngũ Nhạc phái để tránh cho chức này rơi vào tay những kẻ như Nhạc Bất Quần, Tả Lãnh Thiền.
Khi Nhậm Ngã Hành công khai đòi tiêu diệt Hằng Sơn, Phương Chấn đại sư đã không ngần ngại đem Dịch cân kinh truyền thụ cho Lệnh Hồ Xung, nhưng lại nói là tâm pháp nội công do Phong Thanh Dương nhờ truyền cho chàng. Nếu như không có Doanh Doanh thông minh tinh tế nói ra điều này thì có lẽ Lệnh Hồ Xung cũng như người đọc chẳng thể nào phát hiện được. Có lẽ đây là lần duy nhất Dịch cân kinh của Thiếu Lâm tự được truyền cho một người theo cách như thế, chẳng những người được truyền không là đệ tử bản môn, mà còn bị lừa gạt để vô tình học thần công mà không hề hay biết, đúng là chỉ có Phương Chấn đại sư mới làm được như thế. Ông đã vượt ra ngoài cái tầm nhìn hạn hẹp của luật lệ một môn phái mà ra quyết định vì an nguy cho toàn thể võ lâm đồng đạo.
Phương Chấn đại sư không chỉ truyền thụ thần công mà còn tôn Lệnh Hồ Xung làm minh chủ để chống lại cuộc chiến giữa chánh phái và ma giáo. Vì Phương Chấn đại sư biết chỉ có Lệnh Hồ Xung mới có thể giải quyết được cuộc chiến tranh giành quyền lực trên võ lâm và chỉ với tấm lòng nhân hậu của chàng khi làm minh chủ – thống lĩnh võ lâm thì giang hồ mới có thể yên ổn.
Huyền thoại truyện kiếm hiệp Kim Dung qua đời ở tuổi 94
Truyền thông Hong Kong đưa tin, nhà văn Kim Dung – tác giả của hàng loạt tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng được dựng phim như Tiếu Ngạo Giang Hồ, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Ỷ thiên đồ long ký...qua đời ở tuổi 94.
Được biết, tiểu thuyết gia nổi tiếng qua đời sau một thời gian dài chiến đấu với bệnh tật.
Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh năm 1924 tại Chiết Giang (Trung Quốc). Ông được coi là vua của các tiểu thuyết kiếm hiệp Trung Quốc, với hàng loạt tác phẩm nổi tiếng như Tiếu Ngạo Giang Hồ, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Ỷ thiên đồ long ký, Lộc Đỉnh Ký…
Kim Dung nằm trong số những nhà văn Trung Quốc có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại, với lượng độc giả lớn trên khắp thế giới. Sách của ông đã được in hơn 300 triệu bản.
Những tác phẩm của nhà văn Kim Dung sau khi được dựng thành phim đã góp phần tạo nên dòng phim kiếm hiệp đình đám của Trung Quốc, cũng là bệ phóng cho hàng loạt tên tuổi lớn của showbiz Hoa ngữ.
Về đời tư, nhà văn Kim Dung gắn liền với 3 người vợ đi qua cuộc đời, là Đỗ Dã Phân, Chu Mai, người vợ hiện tại Lâm Nhạc Di. Ngoài ra, còn một người phụ nữ tên Hạ Mộng, cũng là một bóng hồng mà nhà văn Kim Dung coi mãi mãi là giấc mộng của cuộc đời.
Môn võ công nào lợi hại nhất trong tiểu thuyết Kim Dung?
Chắc hẳn các khán giả đam mê phim kiếm hiệp Kim Dung đã không còn xa lạ gì với những chiêu thức võ công vừa lợi hại vừa đẹp mắt của các cao thủ giỏi lâm trong phim. Và chắc rằng chúng ta vẫn thường tranh luận cùng nhau xem đâu mới là môn võ công lợi hại nhất. Với mỗi tác phẩm kiếm hiệp của mình Kim Dung lại tạo ra những chiêu thức võ công đặc trưng. Cùng nhau điểm qua các chiêu thức võ công được coi là lợi hại nhất trong tiểu thuyết của Kim Dung nhé!
Cửu Âm chân kinh
Cửu Âm chân kinh đóng vai trò lớn trong Xạ điêu tam bộ khúc, lần đầu được nhắc đến trong Xạ điêu anh hùng truyện. Độc giả sớm chứng kiến sự lợi hại của Cửu Âm chân kinh khi đọc đoạn cặp vợ chồng Hắc Phong Song Sát dùng tuyệt kỹ Cửu Âm Bạch Cốt trảo đâm lủng sọ người.
Theo lời kể của Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông, đây là tác phẩm của kỳ nhân Hoàng Thường, một vị quan đời Tống. Gia đình bị Minh giáo sát hại, Hoàng Thường lên núi tu luyện, giác ngộ được đạo lý võ học Đạo gia, trở thành một cao thủ lợi hại. Nhưng mấy chục năm đã trôi qua, kẻ thù của ông phần lớn đã già và qua đời.
Tỉnh ngộ, Hoàng Thường trút hết kiến thức võ học Đạo gia vào bộ sách Cửu Âm chân kinh gồm hai quyển. Quyển thượng là bí kíp nội công kỳ diệu của Đạo gia, quyển hạ là các môn võ kỳ ảo như Cửu Âm thần trảo và Thôi Tâm chưởng.
Trong cuộc Hoa Sơn luận kiếm đầu tiên, Trung Thần Thông Vương Trùng Dương đánh bại Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế và Bắc Cái và giành được Cửu Âm chân kinh, nhưng ông không luyện tập mà giao lại cho Chu Bá Thông.
Sau này, nhờ duyên kỳ ngộ mà vợ chồng Quách Tĩnh – Hoàng Dung, Dương Quá – Tiểu Long Nữ, Chu Chỉ Nhược đều luyện tập Cửu Âm chân kinh. Trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, hậu duệ của Dương Quá và Tiểu Long Nữ cũng luyện thành môn võ công thần kỳ này, dễ dàng đánh bại Chu Chỉ Nhược.
Cửu Dương thần công
Cửu Dương thần công là bí kíp nội công thâm sâu, xuất hiện trong Ỷ Thiên Đồ Long ký. Cuốn Cửu Dương chân kinh được chép bên mép cuốn Lăng Già kinh, được Giác Viễn thiền sư phát hiện ở Tàng Kinh Các, Thiếu Lâm Tự. Trước khi qua đời, Giác Viễn thiền sư niệm kinh này, do đó cả Trương Tam Phong, Quách Tương và Vô Sắc thiền sư đều học được một phần.
Về sau, Trương Tam Phong sáng lập phái Võ Đang lừng danh, Quách Tương xuống tóc đi tu, tạo dựng phái Nga Mi đều nhờ vào căn bản của Cửu Dương thần công. Nhưng người học được đầy đủ nhất là Trương Vô Kỵ nhờ tình cờ phát hiện bí kíp trong bụng con khỉ lớn sống nơi hẻm núi.
Cửu Dương thần công là bí kíp luyện nội lực hùng hậu vào loại bậc nhất thiên hạ. Nhờ Cửu Dương thần công, Trương Vô Kỵ dễ dàng hóa giải chất độc âm hàn của Huyền Minh thần chưởng, đồng thời nhanh chóng luyện thành các võ công độc đáo như Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp và Thái Cực quyền, trở thành “thiên hạ đệ nhất nhân”.
Độc Cô cửu kiếm
Độc Cô cửu kiếm là kiếm thuật tối thượng, do Độc Cô Cầu Bại sáng tạo. Theo lời kể của Phong Thanh Dương trong Tiếu ngạo giang hồ, Độc Cô Cầu Bại là kiếm khách vô địch thiên hạ, tung hoành giang hồ cả một đời mà không hề bại trận. Được Phong Thanh Dương truyền thụ võ công này, Lệnh Hồ Xung lập tức trở thành đại cao thủ kiếm thuật, thậm chí đánh bại cả Xung Hư đạo trưởng, chưởng môn Võ Đang.
Độc Cô cửu kiếm bao gồm 9 thức, có thể dùng để đối phó với mọi loại vũ khí và võ công trong thiên hạ. Đỉnh cao của Độc Cô cửu kiếm chính là nguyên lý “vô chiêu thắng hữu chiêu”. Phong Thanh Dương lập luận sử dụng kiếm thuật phải như nước chảy mây trôi tùy theo ý muốn, không bị gò bó, lệ thuộc theo chiêu thức cố định.
Ông nói với Lệnh Hồ Xung: “Chiêu số là phần tĩnh, người phát chiêu mới là động… Chiêu thức dù có cao đến đâu mà để đối phương tìm ra đường lối là có thể nhận ra kẽ hở phá mình ngay. Còn như đã không có chiêu thức thì địch nhân phá vào đâu?”.
Trong Thần điêu hiệp lữ, Dương Quá cũng tình cờ tìm thấy mộ của Độc Cô Cầu Bại, học được triết lý kiếm thuật của ông, cuối cùng thực sự trở thành bậc cao thủ hàng đầu chốn giang hồ.
Quỳ Hoa bảo điển
Trong Tiếu ngạo giang hồ, ba đại cao thủ là Lệnh Hồ Xung, Nhậm Ngã Hành và Hướng Vân Thiên cùng Nhậm Doanh Doanh lên Hắc Mộc Nhai để tiêu diệt Đông Phương Bất Bại, giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo. Nhưng Đông Phương Bất Bại chỉ bằng một chiếc kim thêu cũng đủ sức đánh cho Lệnh Hồ Xung, Nhậm Ngã Hành và Hướng Vân Thiên tơi bời.
“Thân thủ Đông Phương Bất Bại chập chờn như bóng ma, chợt tả chợt hữu, thoắt phía trước, thoắt sau lưng”, Kim Dung mô tả. Chỉ khi Nhậm Doanh Doanh dùng mưu khiến Đông Phương Bất Bại xao nhãng, bộ ba đại cao thủ mới có thể đánh bại được y. Chừng đó đủ cho thấy sự lợi hại của Quỳ Hoa bảo điển.
Nguyên tắc luyện tập của Quỳ Hoa bảo điển là “dẫn đao tự cung” (tự thiến). Võ công này tình cờ được truyền đến Nam Thiếu Lâm, rồi khiến phái Hoa Sơn chia rẽ thành phe Kiếm tông và Khí tông trước khi rơi vào tay Nhật Nguyệt thần giáo.
Độ Nguyên thiền sư của Nam Thiếu Lâm lén học võ công này, gọi là Tịch Tà kiếm phổ. Sau đó hoàn tục gia nhập giang hồ, đổi sang họ Lâm và trở thành cao thủ nổi tiếng. Ngoài Đông Phương Bất Bại, chưởng môn Hoa Sơn Nhạc Bất Quần vì tham vọng cũng tự thiến để luyện Tịch Tà kiếm phổ, đi vào đường tà.
Gã con rể Lâm Bình Chi cũng lén học để báo thù, cuối cùng giết chết người vợ Nhạc Linh San đáng thương.
Lục Mạch thần kiếm
Trong Thiên long bát bộ, các thành viên hoàng tộc Đại Lý đều tinh thông võ thuật. Nước Đại Lý có hai độc môn công phu là Nhất Dương chỉ và Lục Mạch thần kiếm. Trong đó, Lục Mạch thần kiếm là võ công có uy lực cực lớn. Đây là tuyệt kỹ sử dụng vô hình kiếm khí phát ra từ đầu ngón tay để tấn công đối thủ.
Vương tử Đoàn Dự tình cờ học được công phu này, nhưng lúc sử dụng được, lúc không vì bản tính hiền lành của chàng. Khi tận mắt chứng kiến Đoàn Dự dùng Lục Mạch thần kiếm đánh bại Mộ Dung Phục, Tiêu Phong hiểu đó là võ công vô địch, đến bản thân chàng với Hàng Long thập bát chưởng dũng mãnh cũng không chống nổi.
Dịch Cân kinh
Đây là môn nội công tối thượng của Thiếu Lâm tự, được Kim Dung nhắc đến trong Thiên long bát bộ và Tiếu ngạo giang hồ. Tương truyền đây là công phu do chính Đạt Ma sư tổ sáng tạo ra sau khi diện bích 9 năm. Ở Tiếu ngạo giang hồ, Lệnh Hồ Xung nhờ Phương Chứng đại sư truyền thụ Dịch Cân kinh nên đã hóa giải được những tổn hại do Hấp Tinh đại pháp gây ra với cơ thể.
Còn trong Thiên long bát bộ, Du Thản Chi tình cờ học được một phần Dịch Cân kinh, do đó hóa giải được chất kịch độc Băng Tằm, đồng thời sở hữu nội công thượng thừa trong cơ thể.
Ảm nhiên tiêu hồn chưởng
Dương Quá là nhân vật rất đặc biệt trong số các hiệp khách do Kim Dung xây dựng. Chỉ một mình chàng có khả năng sáng tạo võ công của riêng mình. Đó là bộ Ảm Nhiên Tiêu Hồn chưởng.
Dương Quá nghĩ ra môn công phu này trong tâm trạng sầu khổ, tuyệt vọng khi chờ đợi Tiểu Long Nữ suốt 16 năm. Tên của những chiêu thức trong Ảm Nhiên Tiêu Hồn chưởng đều xuất phát từ những đau khổ mà chàng trải qua trong cuộc sống.
Lúc gặp Tiểu Long Nữ, tâm trạng vui vẻ, Dương Quá không thể sử dụng được võ công này. Do đó, chàng suýt mất mạng dưới chưởng của Kim Luân pháp vương trong cuộc chiến ở thành Tương Dương.
Nhờ Ảm Nhiên Tiêu Hồn chưởng, Dương Quá đã đánh bại được Kim Luân pháp vương, kẻ mang trong mình Long Tượng Bát Nhã công, công phu bí truyền của phái Mật Tông ở Tây Tạng, có sức mạnh như rồng như voi.
Với những môn võ công đặc sắc, đặc biệt khi được chuyển thể thành phim đã cho chúng ta xem được nhiều màn đấu võ kịch tính.
Theo bạn môn võ công nào là lợi hại nhất trong tiểu thuyết của Kim Dung nhỉ?
Vì sao chưởng Kim Dung chỉ thu hút người Hoa và Việt?
Tin nhà văn Kim Dung tức Louis Cha qua đời ở Hong Kong, thọ 94 tuổi, đang làm sống dậy nhiều cảm xúc trong giới bạn đọc người Việt.
Lần ‘gặp gỡ’ đầu tiên của tôi với sách Kim Dung là vào hồi học cấp hai trường Tô Hoàng, Hà Nội.
Có cậu bạn nhà ở Phố Huế cho mượn một cuốn sách nhàu nát, không rõ vì bị vò xé lúc xem trộm hay bị nhét gậm giường nhiều lần.
Tiếng Việt trong cuốn Lục mạch Thần kiếm đó là một thứ gì khác lạ, chữ in, trang bìa cũng khác, vì là in ở Sài Gòn và như vô số đầu sách ‘ngoài luồng’ khác, được chuyển ra Bắc sau 1975.
Từ đó, tôi đã bắt đầu đọc Kim Dung và say mê ‘phiêu du’ trong mộng tưởng với Trương Vô Kỵ, Đoàn Dự, Quách Tỉnh, Hoàng Dung… như nhiều bạn cùng thế hệ.
Nhưng sau này, khi truyện chưởng được công khai hóa và bày bán khắp nơi, phim chưởng cũng kéo dài liên miên trên băng và truyền hình thì tôi không thích nữa.
Sống đã nhiều năm tại châu Âu, tôi tưởng đã quên đi thể loại truyện và phim ảnh đặc thù Trung Hoa và có ảnh hưởng ở Việt Nam này.
Nhưng cái chết của Kim Dung là dịp nhìn lại giá trị thực và hạn chế của loại hình văn học này mà ông là tác giả hàng đầu.
Có thể nói truyện chưởng và văn Kim Dung tuy rất nổi tiếng ở châu Á nhưng gần như không có mặt ở Âu Mỹ.
Giới trẻ TQ chơi chữ hiểm hóc chống kiểm duyệt
Hà Nội học được gì từ Hàng Châu?
Xuân Quỳnh và giải thưởng Hồ Chí Minh
Như tờ The Guardian ở Anh viết hồi năm 2017, khi phim ‘A Hero is Born’ (dựa trên Thần điêu Đại hiệp – Legends of the Condor Heroes) ra mắt, đây là thứ văn chỉ phổ biến ở Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam và Thái Lan.
Dù đã có các bản dịch tiếng Anh khá sớm -như Thư kiếm ân cừu lục được Graham Earnshaw dịch là ‘The Book and the Sword‘ – truyện kiếm hiệp Trung Hoa đã không, hoặc chưa vào được dòng chính của văn học Âu Mỹ.
Có ba lý do cho hạn chế này.
1. Một là về thể loại: truyện võ hiệp (wuxia novel) sang châu Âu được xếp vào dòng sách chivalric fantasy, theo truyền thống truyện hiệp sỹ thời Trung Cổ.
Các motives chính của truyện ‘hiệp sỹ cứu công nương’ đã dừng lại ở thời rất xưa tại châu Âu và bị Miguel de Cervantes nhạo trong Don Quixote (thế kỷ 17).
Nói như Lewis Manalo thì nhờ phim ảnh, những cảnh trong truyện võ hiệp của Kim Dung tuy không còn xa lạ với khán giả Phương Tây nhưng vẫn là thứ ‘đặc thù’:
“Kiếm thủ nam hoặc nữ làm những cú nhảy như diễn viên xiếc từ mái nhà lợp bằng đá, rồi phi thân đuổi theo tên cướp. Tay kiếm thủ nhảy từ mái nhà này sang mái nhà kia, vượt qua những khoảng cách khó tin tới mức quái dị, thực hiện những chiêu diệu nghệ như vũ ballet, và trông cứ như là sắp bay (on the edge of flying)…”
Với tin Kim Dung qua đời, một số báo ví truyện của ông với Lord of the Rings của JR Tolkien, xét về độ dài và tình tiết kiểu du hành phiêu lưu.
Nhưng điều khác là sách của Tolkien, đã dựng thành phim, là loại truyện thần thoại ma quỷ, còn võ công trong truyện chưởng là của người trần mắt thịt.
Cách luyện công phu được giới phê bình sách châu Âu mô tả như trò phù thủy hoặc phép chế độc dược của các nhà giả kim thuật (alchemists).
Võ công thâm hậu đạt được là “nhờ sự tu luyện kỳ bí nào đó, họ phát được ra lực khủng khiếp từ trong người”.
Giới phê bình Phương Tây cũng chú ý đến tính bình dân, hoặc ‘dân chủ đường phố’ của truyện chưởng nói chung và truyện Kim Dung nói riêng.
Đó là già trẻ lớn bé, quý tộc, ăn mày…ai cũng có thể thành cao thủ làng võ, nhờ công phu luyện tập, nhờ may mắn gặp được bí quyết, người thầy giỏi.
Phân loại hình tượng nhân vật qua tuyến Chính – Tà trong các tác phẩm đều dễ hiểu cho độc giả bình dân.
Những lời khen dừng lại ở đây.
2. Nhưng ngoài những điểm chung với văn học thế giới thì độ dài quá mức và cách hành văn và ngôn ngữ là vấn đề thứ hai.
Đúng thế, bạn đọc Âu Mỹ khó nắm bắt ngôn ngữ Hán văn cổ của Kim Dung.
Nick Frisch viết trên The New Yorker trong bài ca ngợi Kim Dung qua bản dịch Thần điêu đại hiệp của nữ dịch giả Anna Holmwood (người Thụy Điển có chồng Đài Loan) thừa nhận văn Kim Dung rất khó dịch.
“Những cái tên đọc lên rất dễ nghe trong tiếng Hoa đơn âm trở thành khúc mắc trong tiếng Anh… Ví dụ chiêu thức võ công (kung-fu maneuver) như Lạc Anh thần kiếm trưởng (luo ying shen jian zhang), chỉ là năm âm trong tiếng Trung, trở thành ‘Wilting Blossom Sacred Sword Fist’, nghe thật nặng nề trong tiếng Anh…”
Ta hãy xem một số tên đã dịch sang Anh văn:
Thiên Long Bát Bộ – Demi-Gods and Semi-Devils
Anh hùng Xạ điêu – The Legends of the Condor Heroes
Ỷ thiên Đồ long kiếm – The Heaven Sword and Dragon Saber
Những tên tiếng Anh đều tối nghĩa vì phải cố chuyển tải tên truyện chữ Hán mà đọc lên không vang dội, ‘hoành tráng’ như bản chữ Hán hoặc Việt văn.
Võ công ‘Cửu âm bạch cốt trảo’ được dịch là ‘Nine yin white bone claw‘, vừa lạ tai như món chân gà trong quán ở Chinatown, vừa phải giữ từ ‘yin’ không dịch được vì chứa đựng toàn bộ phần triết lý âm ương (yin-yang)của Phương Đông.
‘Võ mục di thư’ phải dịch là ‘Book of Wumu’, và giải thích thêm ý nghĩa trong phụ lục.
Phái Nga Mi được giữ nguyên là ‘Emei Sect‘, còn Cái bang là ‘The Beggars’ Sect‘, đều lạ tai trong tiếng Anh.
Tóm lại, chính những cái tên này làm nên bản sắc của truyện chưởng Kim Dung nhưng là cản trở lớn để truyện của ông nhập vào dòng văn học Âu Mỹ.
Giới phê bình Phương Tây có ca ngợi bộ Thần điêu đại hiệp (The Condor Trilogy) nhưng cũng ái ngại về độ dài: 2,5 triệu Hán tự, dịch trọn sẽ là 1,5 triệu từ tiếng Anh.
Theo tôi đây là vấn đề của truyện Kim Dung: rất dài và phủ sóng vài thế kỷ nhưng chưa thể sánh được với ‘Chiến tranh và Hòa bình’ của Leon Tolstoy về tầm tư tưởng.
Có thể là vì đây là dạng truyện chương hồi đăng trên các số báo ở Hong Kong nên không gọn ghẽ.
3. Điểm thứ ba tôi muốn nói chính là thông điệp chính trị – xã hội của Kim Dung, và đây mới là điều khác biệt lớn giữa văn hóa Đông và Tây.
Trung thành với các khái niệm trung hiếu tiết nghĩa của Khổng giáo, pha trộn tinh thần trọng tự do cá nhân kiểu đạo Lão, truyện Kim Dung đã làm say mê hàng triệu bạn đọc châu Á.
Nhưng sách của ông dù tạo dựng thành công nhiều nhân vật có cá tính, sống chết vì tình nghĩa trong thế giới luôn đầy thù ít bạn, tình duyên trắc trở, đã rơi vào một số tuyến giá trị mà chân thiện mỹ dồn hết cho văn hóa Hán (Sinocentricism).
Nhìn chung, với Kim Dung, các tà phái, những võ công tàn độc đều đến từ bên ngoài, còn Hoa Hạ là đỉnh cao của văn minh, của chính nghĩa.
Vì sao lại như thế?
Ta phải hiểu bối cảnh các tác phẩm của Kim Dung là thời tộc du mục Nữ Chân và Mông Cổ lấn vào Trung Nguyên đầu thế kỷ 13, và Thanh Triều diệt nhà Minh và đô hộ Trung Quốc mấy thế kỷ sau đó.
Lần đầu, dân tộc Trung Hoa bị mất nước, tước quyền chính trị khi nhà Nam Tống sụp đổ, khiến Quách Tỉnh và Hoàng Dung tự sát và cuộc đấu tranh gìn giữ văn minh Hán phải đi vào bí mật.
Lần hai, khi Thanh chiếm Trung Hoa, áp đặt một hệ thống quân quản hà khắc, khiến các hội kín nổi lên, đưa cả phong trào Phản Thanh phục Minh ra khỏi lãnh thổ Trung Hoa sang Đông Nam Á.
Người đàn ông Trung Hoa ở thế thua trận, mất nước chỉ có tìm vào võ công thần bí với niềm tin tự tôn chủng tộc, và kể cả như vậy, các nhân vật hàng đầu cuối cùng đều thất bại, hoặc bị giết, thất tình, hoặc phải xa lánh cuộc đời, đi vào chốn tu hành hoang vu.
Để thỏa mãn ‘thắng lợi tinh thần’, Kim Dung cho vua Càn Long là người Hán, là em của Trần Gia Lạc nhưng trớ trêu thay, quyền lực đã thắng và Càn Long – nhân vật tưởng tượng đó, đã lừa bắt cả Hồng Hoa Hội và khiến nàng Kha Lệ Tư phải chọn cái chết.
Vấn đề của Kim Dung là ông dựng lại một thế giới theo các giá trị và tiêu chuẩn Hán và tạo ra thắng lợi nội tâm và tinh thần cho dân tộc ông trong xung đột Hán – du mục, trước khi Trung Hoa tan rã.
Ở mặt nào đó, cuộc đời Kim Dung và tâm thế phải bỏ quê hương, nơi mẹ chết vì chiến tranh, cha bị đấu tố và xử tử sau khi chế độ Mao lên cầm quyền, đã ảnh hưởng đến motive hoài cổ và lý tưởng hóa quá khứ trong văn của ông.
Điều đáng chú ý là những kinh điển về tình yêu kiểu Khổng giáo được giữ nguyên cho các nhân vật nữ: họ luôn phải chọn giữa tình yêu cá nhân và chữ hiếu, lòng trung thành với gia đình, dòng tộc, môn phái.
Sự giằng xé trong con tim của họ tạo ra nhiều hình ảnh lãng mạn đẹp kiểu châu Á nhưng ít sức thuyết phục với người Phương Tây vì họ coi nó ủy mị, đau thương không cần thiết, theo kiểu hơi trẻ con, thậm chí hơi ‘sến’ (cheesy).
Những yếu tố trên khiến truyện Kim Dung cũng rất hấp dẫn với một bộ phận người Việt Nam vì tương đồng văn hóa và giá trị của một thời.
Nhưng người đọc Việt Nam, trừ những người gốc Hoa, lại nhìn vào vấn đề trong truyện chưởng Kim Dung theo một cách khác.
Đối với người Việt thì Càn Long trong Thư kiếm ân cừu lục là người Hán hay Mãn cũng không quan trọng, vì đằng nào thì ông ta cũng đã thua vua Quang Trung trong lịch sử thật, không phải sử tưởng tượng.
Nhưng người Việt thích truyện chưởng vì tình tiết ly kỳ, và quan trọng hơn là tinh thần tính phản kháng trước giặc ngoại xâm, trước quan nha tàn ác.
Tính bình dân, giang hồ dễ khiến ai cũng tìm thấy một nhân vật điển hình mà mình thích.
Bên cạnh đó, người Việt trong chiến tranh và hậu chiến đã ngưỡng mộ tinh thần xả thân vì nghĩa, và dám hy sinh cho tình bạn, tình yêu trong truyện Kim Dung, điều thực ra khi đó cũng rất ít thấy trong cuộc sống thật và ngày này thì còn ít hơn.
Vì thế, có thể nói dân tộc Trung Hoa có ‘fantasy’ tự tôn tinh thần riêng cùng truyện Kim Dung, còn người Việt Nam, lại lấy có cảm hứng từ một góc hơi khác.
Cả hai tình cảm đặc biệt này với truyện Kim Dung xem ra vẫn xa lạ với người Phương Tây.
Với 1 tỷ đầu sách được in ra, gồm cả sách in lậu, Kim Dung là nhân vật lớn trong làng văn châu Á.
Nhưng ngay tại Trung Quốc, giới trẻ nay đọc ít Kim Dung hơn trước mà biết về ông chủ yếu qua các game điện tử.
Thời thế đã đổi, thanh thiếu niên Việt Nam nay không còn chuộng các nhân vật của võ lâm như thế hệ tôi.
Cuộc sống ở ngưỡng cửa một thiên niên kỷ nhiều bất trắc làm lộ ra các vấn đề rất khác trước mà đạo lý nặng về trung hiếu kiểu xưa, tính chịu khó luyện rèn chưa chắc đã phù hợp.
Tại Âu Mỹ, văn học fantasy nay cũng đã đi khá xa trước, thành thể loại thần thoại pha trộn khoa học viễn tưởng, vũ trụ chứ không còn là võ nghệ kiểu ‘thủ công’.
Một dòng văn học khác là dystopian fiction mà cuốn tiêu biểu là The Hunger Games của nữ nhà văn Mỹ Suzanne Collins, nói về thế giới tương lai ám màu bi quan, Ác nhiều hơn Thiện, đang nổi lên.
Chừng nào tâm thế bất an đó còn bao trùm đầu óc nhiều bạn trẻ thì chắc chắn người ta vẫn cần những hình tượng văn học và điện ảnh, nhưng phải mới hơn những suy tư của Tiểu Long Nữ, Tiêu Phong và Đoàn Dự.
Xem thêm:
Lâm Tắc Từ và chuyện Trung Hoa mất đất
Giới trẻ TQ chơi chữ hiểm hóc chống kiểm duyệt
Trận Vân Đồn và tham vọng của Nguyên chúa
Đài Loan trao giải Nhà Đường năm 2018
TQ liên tiếp có các vụ quan chức tự sát